Giáo Huấn Của
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II Về Đời Sống Thánh Hiến
(daminhvn.net) 03/12/2014
Lời Giới Thiệu
Từ cuối tháng 9 năm 1994
cho đến cuối tháng 3 năm 1995, Đức thánh cha Gioan Phaolô II đã dành 19 bài huấn
giáo nhân buổi tiếp kiến chung vào thứ tư hàng tuần để giới thiệu về đời sống
thánh hiến. Để hiểu rõ nội dung của các bài này, thiết tưởng cần phải đặt trong
bối cảnh của nó.
1/ Một đàng, các bài huấn giáo về đời sống thánh hiến nằm trong
khuôn khổ các bài huấn giáo về Mầu nhiệm Hội thánh, bắt đầu từ năm 1991, với những
chiều kích huyền nhiệm và cơ chế, bao gồm các bí tích cũng như cơ cấu phẩm trật.
Trong bối cảnh đó, Đức Thánh Cha trình bày huấn giáo về các linh mục và phó tế
(31/3-20/10/1993), các giáo dân (27/10/1993 đến 21/9/1994).
2/ Đàng khác, các bài huấn giáo về đời sống thánh hiến trùng hợp
với phiên họp Thượng hội đồng giám mục khoá IX, bàn về “Đời thánh hiến và sứ mạng trong
Hội thánh và thế giới” (2-29/10/1994), với các kết quả được đúc kết trong
tông huấn Vita Consecrata (25/3/1996). Những bài huấn giáo này có thể coi như sự
đóng góp của Đức Thánh Cha cho Thượng hội đồng, và phần nào được trích dẫn
trong tông huấn hậu thượng hội đồng (xc. các số chú dẫn 5; 37; 48; 54; 147).
Qua 19 bài huấn giáo này, độc giả có thể tìm được một toát yếu
thần học đời sống
thánh hiến.
1/ Bài mở đầu trình bày chỗ đứng của hàng
ngũ thánh hiến trong mầu nhiệm Hội thánh. Đời thánh hiến nằm trong bản chất
thánh thiện của Hội thánh: Hội thánh không chỉ mang lãnh nhận sứ mạng rao giảng
Tin mừng cho thế giới, nhưng còn có nghĩa vụ thể hiện ơn gọi nên thánh (bài 1).
2/ Năm bài kế tiếp (bài 2-6) đi sâu vào nguồn
gốc và bản tính của đời thánh hiến. Bài 2 khởi hành từ những hình thức thánh hiến
ra đời vào thời cận đại để trở ngược lên khởi thủy của nếp sống này, bắt nguồn
từ nếp sống và lời giảng của Chúa Kitô (bài 3). Để hiểu rõ bản tính của đời
thánh hiến, cần tìm hiểu ý nghĩa của vài tư tưởng cốt yếu:
- lời gọi “hãy đi theo Thầy” ngỏ với người
thanh niên trong Phúc âm cũng như với các bạn trẻ qua các thời đại để phục vụ
Nước Trời (bài 4)
- thánh hiến (hoặc tận hiến): sự khác biệt
giữa sự thánh hiến chung của tất cả các tín hữu (nhờ bí tích Thánh tẩy) và sự
thánh hiến của hàng ngũ tu trì (bài 5);
- ước muốn nên trọn lành (bài 6).
3/ Từ bài 7, Đức thánh cha giải thích những
yếu tố cốt yếu của nếp sống thánh hiến:
- ba lời khuyên Phúc âm: khiết tịnh (bài
7-8); khó nghèo (bài 9); vâng phục (bài 10).
- đời sống chung (bài 11); sự cầu nguyện
(bài 12).
4/ Hai bài 13 và 14 nêu bật vai trò của đời
thánh hiến trong sứ vụ Hội thánh: phục vụ Hội thánh qua việc làm chứng cho những
giá trị Nước Chúa.
5/ Các bài 15-17 xét đến vài hình thức phục
vụ đặc thù của hàng ngũ thánh hiến: các tu sĩ linh mục, tu huynh, nữ tu.
6/ Hai bài cuối cùng (18-19) được dành cho ảnh
hưởng của Chúa Thánh Linh và đức Trinh nữ Maria đối với đời thánh hiến.
Bản dịch những bài huấn giáo này từ nguyên văn tiếng Ý do nữ tu Maria Đinh Thị Sáng, Hội Dòng nữ Đa Minh Tam Hiệp
thực hiện.
***
BÀI 1
ĐỜI SỐNG THÁNH HIẾN TRONG GIÁO HỘI
(28/9/1994)
1. Trong các bài huấn
giáo về Giáo Hội mà chúng ta đang trình bày từ lâu nay, nhiều lần chúng ta đã
giới thiệu Giáo Hội như là đoàn dân tư tế, nghĩa là bao gồm những người thông dự
vào chức tư tế của Đức Kitô, như là trạng thái hiến thánh cho Thiên Chúa và thi
hành việc phụng tự hoàn hảo và chung cục mà Người dâng lên Chúa Cha nhân danh
toàn thể nhân loại. Điều này diễn ra nhờ Bí Tích Thánh Tẩy, tháp nhập người tín
hữu vào Thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô, đề cử họ (ra như do chức vụ ex officio
và có thể nói được là do cơ chế - diễn đạt nơi bản thân mình điều kiện làm Tư tế
và Hiến lễ (Sacerdos et Hostia) của Đầu[1].
Mọi Bí Tích khác (đặc biệt là Bí Tích Thêm sức) đều kiện toàn điều
kiện thiêng liêng ấy của người tín hữu, và Bí Tích Truyền Chức Thánh còn trao
ban quyền hành động thừa tác như là dụng cụ của Đức Kitô, trong việc loan báo Lời
Chúa, diễn lại hy lễ thập giá và tha tội.
2. Để làm sáng tỏ hơn sự thánh hiến của dân Thiên Chúa, bây giờ
chúng ta đề cập đến một chương khác cơ bản của Giáo hội, ngày nay được tăng
thêm tầm quan trọng dưới khía cạnh thần học và tu đức. Đó là đời sống thánh hiến,
mà không ít môn đệ của Chúa Kitô đã chấp nhận như là hình thái cao cấp, sâu sắc
và cam go để thể hiện những hệ luận của Bí Tích Thánh Tẩy dưới khía cạnh của đức
ái trổi vượt, dẫn đến sự trọn lành thánh thiện.
Thừa hưởng truyền thống thần học và tu đức của hai ngàn năm Kitô
giáo, Công Đồng Vaticanô II đã đề cao giá trị của đời thánh hiến, được diễn ra
cụ thể, theo sự chỉ dẫn của Tin mừng, qua việc “thực hành đức khiết tịnh tận hiến
cho Thiên Chúa, đức khó nghèo và đức vâng lời”[2], mang tên là “các lời khuyên
Phúc Âm”. Công Đồng đề cập đến đời thánh hiến như việc biểu lộ tự ý của tác động
quyền năng của Chúa Thánh Thần, Đấng đã gợi lên ngay từ thuở đầu nhiều linh hồn
quảng đại, khao khát sự trọn lành và dâng hiến chính bản thân vì lợi ích của tất
cả Thân Thể Đức Kitô (x. GH 43).
3. Đó là những cảm nghiệm cá nhân không hề suy giảm và vẫn phát
triển kể cả vào thời nay trong Giáo Hội. Nhưng ngay từ những thế kỷ đầu, người
ta ghi nhận khuynh hướng chuyển từ việc thực hành các lời khuyên Phúc Âm với
tính cách cá nhân nói được như là “tư riêng” - đến một điều kiện được Giáo Hội
nhìn nhận như
là “công cộng”, dù qua nếp sống đơn độc của các ẩn sĩ, hay, với con số đông hơn, qua sự hình thành những cộng
đoàn đan sĩ hoặc các dòng tu. Những cộng đoàn này muốn hỗ trợ nhau để đạt tới
những mục tiêu của đời sống thánh hiến:
tính bền vững, việc đào tạo đạo lý tốt hơn, đức vâng phục, sự giúp đỡ hỗ tương và sự tiến triển trong đức
ái.
Ngay từ những thế kỷ đầu tiên cho đến thời đại chúng ta, “hình
thức đa dạng kỳ diệu của các cộng đoàn” đã được phác hoạ, trong đó tỏ hiện “đức
khôn ngoan muôn mặt của Thiên Chúa”[3], và biểu lộ sức sống phi thường của Giáo
Hội, tuy vẫn duy trì sự duy nhất của Thân thể Đức Kitô, theo lời của thánh
Phaolô: “Có nhiều đặc sủng khác nhau nhưng chỉ có một Thần Khí” (2Cr 12,4).
Chúa Thánh Thần đổ tràn muôn vàn ân huệ để làm cho Giáo Hội duy nhất được thêm
phong phú. Trong vẻ đẹp muôn màu, Giáo Hội phô bày qua lịch sử “sự giàu có khôn
lường của Đức Kitô” (Ep 3,8), cũng hệt như tất cả mọi loài thụ tạo, “trong muôn
hình dạng và trong từng phần riêng biệt” (multiplicter et divisim), biểu lộ điều
tuyệt đối duy nhất ở nơi Thiên Chúa, như thánh Tôma đã viết[4].
4. Dù nói thế nào đi nữa, ân huệ của Chúa tự căn bản vẫn là duy
nhất, tuy dù qua những hồng ân vừa nhiều vừa khác biệt, được ban cho các cá
nhân và cộng đoàn, được gọi là đặc sủng[5]. Thật vậy, đặc sủng có thể là cá
nhân hay tập thể. Những đặc sủng cá nhân được ban phát dồi dào trong Giáo Hội,
với nhiều khác biệt từ người này qua người khác, khó mà xếp hạng và đòi Giáo hội
phải phân định từng trường hợp. Còn nói chung, những đặc sủng tập thể được ban
cho những người nam nữ, để sáng lập những công tác của Giáo Hội và đặc biệt là
những Hội Dòng tận hiến. Các Hội Dòng này nhận được đặc tính của mình từ đặc sủng
của vị sáng lập; họ sinh sống và hoạt động dưới ảnh hưởng của các đặc sủng đó,
và tùy vào mức độ trung thành ấy mà họ nhận lãnh những ân huệ và đặc sủng mới
cho từng cá nhân và cho toàn thể Cộng đoàn. Nhờ vậy, các cộng đoàn này có thể
tìm thấy những hình thức hoạt động mới, tuỳ theo nhu cầu của từng nơi và từng
thời, mà không làm suy xuyển tính liên tục và phát triển mà vị sáng lập đã gợi
hứng, hoặc có thể khôi phục lại căn tính và sức năng động của mình cách dễ
dàng.
Công Đồng nhận định rằng “Giáo Hội dùng quyền hành của mình để
đón nhận và phê chuẩn những dòng tu” (DT số 1). Điều này phù hợp với nhiệm vụ
riêng của giáo quyền đối với các đặc sủng, với phận sự “không phải để dập tắt
Thần Khí, nhưng để trắc nghiệm và giữ lại những điều thiện hảo (cf. 1Tx 5,12.
19-21)” (GH 12). Đó là lý do giải thích vì sao, đối với các lời khuyên Phúc âm “giáo
quyền dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, ân cần giải thích các lời khuyên của
Phúc Âm, hướng dẫn cách thực hành cũng như ấn định những lối sống vững bền” (GH
43).
5. Tuy nhiên, phải luôn
nhớ rằng hàng ngũ đời sống thánh hiến không thuộc về cơ cấu phẩm trật của Giáo
hội. Công Đồng ghi nhận rằng: “Nếu nhìn theo cơ chế phẩm trật của Giáo Hội do
Chúa thiết lập, thì hàng ngũ tu trì không nằm ở giữa bậc giáo sĩ và giáo dân,
nhưng từ cả hai bậc đó, một vài tín hữu được kêu gọi hưởng nhận ân huệ đặc biệt
này trong đời sống Giáo Hội, và tuỳ cách thức riêng mà góp phần vào sứ mệnh cứu
độ của Giáo Hội” (GH 43).
Tuy nhiên, liền sau đó Công Đồng thêm rằng hàng ngũ tu trì “được
cấu thành do việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm, tuy không thuộc về cơ cấu
phẩm trật của Giáo Hội, nhưng hẳn nhiên là gắn chặt với đời sống và sự thánh
thiện của Giáo Hội” (GH 44). Từ ngữ “hẳn nhiên” muốn nói rằng tất cả những biến
động có thể làm chao đảo cuộc sống của Giáo Hội, nhưng không thể nào dập tắt được
đời sống thánh hiến, mà đặc trưng là việc tuyên giữ các lời khuyên Phúc Âm.
Hàng ngũ này sẽ mãi tồn tại như là yếu tố thiết yếu của sự thánh thiện của Giáo
Hội. Theo Công Đồng, đây là một chân lý “không thể chối cãi”.
Tuy nhiên, cần phải xác minh rằng không một hình thức đặc hữu
nào của đời sống thánh hiến được bảo đảm là sẽ tồn tại vĩnh viễn. Các cộng đoàn
tu trì đơn lẻ có thể bị tàn lụi. Trải qua dòng lịch sử, người ta nhận thấy rằng
một vài cộng đoàn tu trì thực sự đã biến mất, cũng tựa như là một số Giáo Hội “địa
phương” đã suy tàn. Các hội dòng nào không thích hợp với thời đại, hoặc không
có ơn gọi nữa, thì có thể bị buộc phải đóng cửa hoặc phải sát nhập vào một hội
dòng khác. Việc bảo đảm sẽ tồn tại vĩnh viễn cho tới ngày tận thế thì được ban
cho toàn thể Giáo Hội, chứ không nhất thiết được cấp cho riêng từng hội dòng
nào. Lịch sử cho thấy rằng đặc sủng đời thánh hiến luôn biến chuyển, với khả
năng nói được là “sáng chế” ra nhiều hình thức mới, dù luôn trung thành với
đoàn sủng của đấng sáng lập, đáp ứng trực tiếp hơn cho những nhu cầu và khát vọng
của thời đại. Kể cả những cộng đoàn đã hiện hữu từ nhiều thế kỷ cũng được kêu mời
thích ứng với những đòi hỏi và khát vọng này, để khỏi bị tự diệt.
6. Việc tuân giữ các lời khuyên Phúc Âm, dù mang những hình thức
nào chăng nữa, được bảo đảm sẽ được duy trì trong suốt chiều dài của lịch sử, bởi
vì chính Đức Giêsu Kitô đã chủ ý thiết lập nó như yếu tố vững bền thuộc về nhiệm
cục thánh thiện của Giáo Hội. Quan niệm về một Giáo Hội chỉ bao gồm những người
giáo dân dấn thân vào đời sống hôn nhân và những nghề nghiệp trần thế mà thôi,
thì không phù hợp với ý định của Đức Kitô dựa theo sách Tin mừng. Nhìn vào lịch
sử và thậm chí nhìn vào thời sự hôm nay, chúng ta nghĩ rằng sẽ luôn luôn có những
thanh niên nam nữ (và thiếu niên thiếu nữ) biết dâng hiến toàn thân mình cho Đức
Kitô và vương quốc của Người qua con đường độc thân, khó nghèo và vâng phục một
bản luật sống. Những người đang theo đuổi con đường này vẫn tiếp tục, trong
tương lai cũng như trong quá khứ, đảm nhận một vai trò quan trọng trong việc
thăng tiến sự thánh thiện của cộng đồng Kitô hữu và sứ mạng loan báo Tin mừng.
Ngày nay, hơn lúc nào hết, con đường các lời khuyên Phúc Âm đang mở ra một niềm
hy vọng lớn lao cho tương lai của Giáo Hội.
[1] x. T. Tôma
Aquinô, Summa
theologiae, II, q. 63, a. 3 in c. et ad 2; a. 6.
[2] x. HT 43.
[3] x. Sắc lệnh Perfectae caritatis, 1
[4] Summa
theologiae, q. 47, a. 1.
[5] x. Tôma
Aquinô, Summa
theologiae, II-II q. 103, a. 2