Thần Học Đời Sống Tâm Linh: Lịch Sử Đời Đan Tu Bên Đông
Phương
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. (daminhvn.net) 17/01/2015
PHẦN THỨ NHẤT
LỊCH SỬ CÁC HÌNH THỨC TU TRÌ
***
I. THỜI GIÁO PHỤ
***
Chương Hai
NHỮNG CHẶNG KHỞI ĐẦU CỦA ĐỜI ĐAN TU
Như đã nói trong chương trước, có những sử gia cho rằng
đời sống tu trì Kitô giáo bắt đầu ngay từ khi đức Giêsu rao giảng Tin mừng, và
các môn đệ của Người là những tu sĩ tiên khởi (nếu chưa dám đi trở ngược lên đến
Mẹ Maria); có ý kiến khác chủ trương rằng đời sống tu trì Kitô giáo chỉ thực sự
bắt đầu với thánh Antôn tu hành. Đàng sau hai ý kiến đối nghịch là hai quan niệm
thần học khác nhau về đời tu hành: có gì khác biệt giữa "đời sống tu
trì" và "đời sống Kitô hữu" không? Phải chăng đời tu trì cũng chỉ
là đời sống Kitô hữu mà thôi?
Nhìn dưới khía cạnh lịch sử, chúng ta thấy rằng trong
số những người môn đệ của Đức Kitô, có những người được mời gọi từ bỏ gia đình
để chia sẻ nếp sống lữ hành như Ngài, nhưng đại đa số vẫn tiếp tục nếp sống gia
đình nghề nghiệp như trước. Bước sang thời Giáo hội nguyên thủy, chúng ta thấy
là trong cộng đoàn tín hữu, có những người nam nữ sống tiết chế khổ hạnh bên cạnh
những người lập gia đình. Có thể coi đây như là hiện tượng những người "tu
tại gia". Với thánh Antôn, một giai đoạn mới khởi đầu, nghĩa là những tín
hữu rời bỏ cộng đoàn, rút lui vào sa mạc, tạo thành một nếp sống quen gọi là
"đan tu". Có sử gia muốn nêu bật sự liên tục trải qua những chặng vừa
nói, nghĩa là từ các môn đệ qua các nhà khổ hạnh cho đến các đan sĩ, tất cả đều
ôm ấp chung một lý tưởng đi theo sát gót Chúa Giêsu; sự khác biệt chỉ liên quan
đến môi trường sinh sống mà thôi. Một nhóm tác giả khác thì muốn vạch ra khúc
quặt: đời đan tu chỉ thực sự bắt đầu với thánh Antôn, nghĩa là một hàng ngũ
tách biệt khỏi đa số tín hữu. Tại sao nảy sinh hiện tượng này? Theo các học giả,
trong ba thế kỷ đầu, lý tưởng của đời sống Kitô hữu là các vị tử đạo, những chứng
nhân sẵn sàng hy sinh mạng sống cho Đức Kitô; sang thế kỷ IV, khi các tín hữu
được hưởng tự do tôn giáo, thì nếp sống đạo trở thành lỏng lẻo vì không còn gặp
gian truân như trước. Trong bối cảnh đó, một số tín hữu nhiệt thành đã rút lên
sa mạc, để nuôi dưỡng chí khí của các anh hùng tử đạo: đời đan tu được ví như một
thứ "tử đạo trắng" (nghĩa là không đổ máu).
Thay vì dừng lại ở các cuộc tranh luận và những giả
thuyết, thiết tưởng chúng ta nên theo dõi sự tiến triển của hình thức đan tu
trong những thế kỷ đầu tiên, bên Đông phương (mục I) và Tây phương (mục II),
nghĩa là dưới khía cạnh lịch sử. Trong chương tới, chúng ta sẽ tìm hiểu những
văn phẩm về đời đan tu để khám phá những động lực và lý tưởng (khía cạnh thần học)[1].
***
MỤC 1
LỊCH SỬ ĐỜI ĐAN TU BÊN ĐÔNG PHƯƠNG
Trong tập Năm, chúng tôi đã trình bày nguồn gốc đời
đan tu bên Đông Phương, nơi phát xuất các trường phái tâm linh quan trọng, vì
thế ở đây chúng tôi chỉ bàn qua các hình thức tu trì và cơ cấu tổ chức.
I. Nếp sống sa mạc
Dù thánh Phaolô
Thebes (+347) được coi như người khai sinh cho nếp sống trên sa mạc, nhưng
thánh Antôn (k.251-351) mới đáng mang danh "tổ phụ đời đan tu" bởi vì
có những đệ tử tiếp nối đời sống. Thực vậy, đang khi thánh Phaolô ra như sống một
thân một mình trên sa mạc, thì chung quanh thánh Antôn, chúng ta đã thấy có những
nhóm đệ tử quây quần.
1. Hình thức các "nhóm ẩn sĩ" (anachoreta, bởi tiếng Hy-lạp anakoreo: rút lui; eremitica, gốc bởieremia:
hoang điạ) có lẽ bắt nguồn từ "nhóm ngôn sứ" vào thời ông Elia và
Elisa trong Cựu ước; nhưng đó là xét về phương diện lý tưởng chứ thực ra chẳng
có sự liên tục nào xét về thể chế. Vào thời kỳ đang bàn (thế kỷ IV), thì chúng
ta thấy nhiều nhóm ẩn sĩ trụ trì tại vài điạ điểm bên Ai cập, có liên hệ cách
nào đó với thánh Antôn:
- Nitria (cách thành phố Alexandria 40 cây số về hướng đông
nam), do ông Ammoun (Ammonios) lập ra vào khoảng năm 320. Theo ông Palladius kể
lại, có thời số các ẩn sĩ tại đây lên tới 5 ngàn người. Có lẽ con số này được
thổi phồng lên, hoặc mang ý nghĩa biểu tượng gì đó. Dù sao đi nữa, khi thấy sa
mạc trở thành chỗ tấp nập thì ông Ammoun đã quyết định rời nơi này, để tiến sâu
hơn vào nơi cô tịch. Theo một truyền thuyết, ông Ammoun cùng với thánh Antôn rời
Nitria sau bữa ăn (lúc 9 giờ sáng) và cứ đi thẳng vào sa mạc cho đến khi mặt trời
lặn mới dừng lại: đó là nguồn gốc của trung tâm Kellia.
- Kellia (Cellules) cách Nitria 18 cây số, do ông Ammoun thành
lập khoảng năm 338 và ông qua đời tại đây, hưởng thọ 72 tuổi. Kellia được nhiều
người biết đến nhờ các văn phẩm của ông Macarius Alexandria (+394) và nhất là của
ông Evagrius (345-399).
- Sketis (Scété), cách Nitria 70 cây số, được ông Macarius Ai-cập
(cũng gọi là Macarius Cả, khác với ông Macarius Alexandria nói trên) chọn làm địa
điểm ẩn tu vào khoảng năm 360. Trong số những nhân vật lừng danh tại đây, ta
không thể nào quên được ông Arsenius (nguyên là một viên quan đại thần ở
Constantinopolis).
2. Không lâu sau, đời ẩn tu cũng được phổ biến sang
Syria, Edessa, Palestina, với vài đặc trưng của mỗi nơi.
- Một hình thức đặc biệt ở Palestina là laura (gốc Hy-lạp có nghĩa là đường mòn, ngõ hẹp), dưới dạng
bán-ẩn-tu: các ẩn sĩ cất những chòi (hoặc sống trong các hốc đá), khá gần nhau,
dưới sự hướng dẫn của một sư phụ. Suốt trong tuần lễ, họ cầu nguyện và lao động
trong cái chòi của mình, và đến ngày thứ bảy và chủ nhật thì hội nhau đọc kinh
chung và cử hành Thánh lễ. Nếp sống laura xem ra bắt đầu tại Gaza do thầy Hilarion (291-371) một đệ tử của thánh Antôn,
và tại Pharan do thầy Chariton, và đạt đến cao điểm vào những năm từ
420 dến 530, không những vì số các đơn vị nhưng nhất là với những sư phụ lừng
danh như: Barsanuphius, Dorotheus Gaza, Euthimius (+473), Sabas (+532).
- Qua các tác phẩm của các giáo phụ như thánh Gioan
Kim khẩu hoặc Theodoretus Cyr, chúng ta được biết đến nếp sống khổ hạnh ở miền
Bắc Syria, Mesopotamia (mà có người coi là lập dị, người khác coi là khắc khổ,
tuỳ theo quan điểm riêng). Một hình thức khổ chế là sống suốt ngày đêm trên một
cái cột (stylitae), giống như thánh Simeon Cột (389-459) trụ trì trên
cái cột cao 10 thước suốt 30 năm trường, gần thành phố Antiochia. Những hình thức
khác là: sống ở trên cây (dendritrae), hoặc một cái chòi nhỏ, hoặc sống giữa
trời (hypaitrae) chịu cảnh dầm mưa dãi nắng.
- Sau cùng, có những cộng đoàn đan tu cũng được thiết
lập cạnh các thành phố lớn, như ở Cesarea (Cappadoxia), và ngay tại thủ đô
Constantinopolis (điển hình là thánh Gioan-Kim Khẩu).
3. Xưa nay, nói đến nếp sống sa mạc, người ta thường
chỉ nghĩ đến nam giới. Điều này dễ hiểu, bởi vì khó lòng tưởng tượng được các
phụ nữ sống một thân một mình nơi đồng không mông quạnh. Tuy vậy, từ khi các phụ
nữ tham gia vào công cuộc nghiên cứu lịch sử, họ mới lưu ý đến sự hiện diện của
nữ giới trong giai đoạn đầu tiên của đời sống tu trì Kitô giáo, không chỉ nơi
các phụ nữ đi theo Đức Giêsu trong cuộc rao giảng Tin mừng hoặc nơi các trinh nữ
và goá phụ tại các cộng đoàn tiên khởi, mà ngay cả trong số những vị ẩn sĩ trên
sa mạc: sách Danh ngôn các sư phụ (Apophthemata) có
nhắc đến những tấm gương khắc khổ của amma Sarra, amma Théodora, amma
Synclética. Sau này, khi cộng đoàn đan tu được thiết lập, ta thấy xuất hiện nhiều
cộng đoàn nữ, thường do một chị em của vị sáng lập làm đầu, như trường hợp của
Maria (em gái của thánh Pacomiô), Macrina (chị của thánh Basiliô), Scolastica
(em của thánh Biển-đức).
II. Đời sống cộng đoàn
Theo dòng lịch sử, nếp sống đan tu bắt đầu từ những vị
ẩn sĩ đơn độc (tựa như thánh Phaolô Thebes), rồi đến các Anhóm ẩn sĩ@ (tựa như
các đệ tử của thánh Antôn), và tiến tới nếp sống cộng đoàn (coenobitismus, gốc Hy-lạp koinos-bios có nghĩa là "chung sống"). Tuy nhiên sự tiến
triển không có tính cách một chiều, bởi vì kể cả vào thời nay tại nhiều nơi ba
hình thức ẩn sĩ, bán-ẩn-sĩ, cộng đoàn vẫn tồn tại bên cạnh nhau; thậm chí có
người bắt đầu đời tu từ cộng đoàn rồi lần lần chuyển qua đời bán ẩn sĩ và kết
thúc với cảnh cô tịch, tựa như thánh Gioan Climacus hoặc các đan sĩ trên núi
Athos mà chúng tôi đã trình bày trong tập Năm (trang 139; 151).
Bên Đông phương có hai khuôn mẫu tổ chức đời sống cộng
đoàn, dựa theo thánh Pacômiô và thánh Basiliô. Trong mục này, chúng tôi chỉ giới
thiệu cách thức tổ chức, và dành việc phân tích bản luật vào chương tới, bàn về
những văn phẩm đời đan tu.
A. Cộng đoàn Pacômiô
Thánh Pacômiô (k.290-346) được coi như khai sinh cho đời
sống cộng đoàn[2]. Xuất thân từ một gia đình ngoại giáo ở Ai-cập, khi
lên 20 tuổi Pacomiô bị cưỡng bách tòng quân và phục dịch ở trên sông Nil. Khi tới
Thèbes, anh và các đồng đội phải lao động khổ sai, nhưng may mắn được các người
Kitô hữu đến nâng đỡ. Cảm kích vì nghĩa cử này, anh xin theo đạo sau khi được
giải ngũ.
Vài tháng sau khi lãnh bí tích rửa tội (khoảng năm
313), anh rút vào đời ẩn tu ở làng Seneset, thọ giáo với một sư phụ tên là
Palamon. Sau bảy năm tu luyện, thầy đến cư ngụ tại làng Tabennisi và có nhiều
người đến xin làm môn đệ. Tại đây một cộng đoàn được thiết lập vào khoảng năm
320. Vì số môn đệ mỗi lúc một tăng, thầy Pacomiô thấy cần soạn ra một bản luật
để điều hành.
Cộng đoàn Pacômiô gồm chín đan viện dành cho
nam giới (và hai dành cho nữ giới, trong đó một cộng đoàn được giao cho bà em
gái đứng đầu). Mỗi đan viện giống như một ngôi làng (nếu chưa dám nói là trại
lính, mà Pacomiô đã quen biết khi tòng quân) xa cách với thế giới bên ngoài bằng
một tường luỹ, và chỉ có một cổng ra vào. Đan viện gồm nhiều "căn hộ",
nghĩa là đơn vị gồm chừng 20-30 thành viên, được phân phối dựa theo nghề nghiệp,
dưới sự điều khiển của "thủ trưởng" (prepositum), với một nguyện đường, nhà cơm, nhà bếp, bệnh xá. Đứng
đầu đan viện là "bề trên" (superior), và
tất cả chín vị bề trên đều ở dưới quyền của "Viện phụ", cư ngụ ở
Tabennesi.
Mỗi năm tất cả các đan sĩ họp nhau hai lần tại đan viện
Pbow (cơ sở thứ hai của cộng đoàn): vào lễ Phục sinh và vào giữa tháng 8. Đại hội
dịp lễ Phục sinh mang tính cách phụng vụ, còn đại hội mùa thu bàn về quản trị
và kinh tế.
Cộng đoàn được xây dựng trên ba yếu tố: bản luật, viện
phụ, tình huynh đệ.
1/ Bản luật quy định việc thâu nhận phần tử, đời sống chung, việc
cầu nguyện, lao động, các bữa ăn, các giấc ngủ, việc sử dụng tài sản, công cuộc
khổ chế (ăn chay, thinh lặng), tiếp xúc với ngoại giới, các buổi hội họp. Nhờ
tuân giữ một kỷ luật chung mà các phần tử kiến tạo một đời sống cộng đoàn.
2/ Bề trên chịu trách nhiệm về việc điều hành cộng đoàn. Các phần
tử phải vâng lời bề trên, nhưng bề trên chỉ thực thi quyền bính trong lãnh vực
của mình (có nhiều cấp độ bề trên), và bề trên cũng phải tùng phục kỷ luật.
3/ Sự thông hiệp huynh đệ. Các
đan sĩ gọi nhau là "anh em". Đa số các tu sĩ là giáo dân. Việc khước
từ tư sản và sự vâng phục bề trên được coi như phương tiện để xây dựng sự thông
hiệp.
Bản luật của thánh Pacomiô để lại ảnh hưởng sâu đậm đối
với lịch sử đan tu bởi vì nhiều vị sư phụ nổi tiếng đã được đào tạo tại các cộng
đoàn này (Basiliô, Hieronymô, Gioan Kim khẩu), hoặc đã thâu nhận các tư tưởng của
bản luật của mình (Cassianô, Biển-đức). Tuy nhiên xét về thể chế, cộng đoàn
thánh Pacômiô không tồn tại lâu dài.
B. Cộng đoàn Basiliô
Khi bàn về đời sống đan tu, chúng ta hãy lột bỏ quan
niệm "tổ phụ lập dòng", bởi vì tuy nhiều dòng cận đại áp dụng luật
thánh Basiliô (bên Đông phương) hoặc thánh Biển-đức, nhưng hai vị này không hề
nghĩ tới việc sáng lập một "Dòng tu" mà các ngài sẽ làm bề trên tổng
quyền (hoặc tổng viện phụ); điều này cũng được áp dụng cho luật thánh
Augustinô. Vào lúc nguyên thủy, các bản luật được viết ra cho một (hoặc vài) cộng
đoàn cụ thể mà thôi.
Cộng đoàn thánh Basiliô (k.330-379) mang một chiều
kích bé nhỏ (chừng độ mươi người, chứ không phải hàng trăm người như cộng đoàn
Pacômiô), mang tính cách gia đình. Ngoài những giờ canh tác, thời khóa biểu còn
ấn định những lúc học hỏi Sách Thánh. Thực vậy, thánh Basiliô không hề gọi các
phần tử là "tu sĩ, đan sĩ" (religiosus, monacus),
mà chỉ là "anh em" (fratres), và
"kitô hữu", bởi vì lý tưởng được đặt ra là sống theo Phúc âm, được
tóm lại trong các nghĩa vụ như sau:
- dùng tài sản để giúp đỡ người nghèo;
- vâng phục luật tối cao của Phúc âm, đó là bác ái yêu
thương;
- học hỏi Lời Chúa;
- cầu nguyện liên lỉ.
Tuy thánh Pacomiô và thánh Basiliô đều cổ võ nếp sống
cộng đoàn, nhưng hai người trở thành nguồn gốc cho hai khuôn mẫu:
1/ Thánh Pacomiô thiên về chiều dọc: bề trên giữ vai
trò giống như sư phụ của các ẩn sĩ; khuôn mẫu này sẽ phản ánh bên Tây phương
nơi những tác phẩm của thánh Cassianô và thánh Biển-đức.
2/ Thánh Basiliô hướng về chiều ngang, nghĩa là tình
huynh đệ A một lòng một ý, dựa theo lý tưởng của cộng đoàn Giêrusalem (Cv 2,44;
4,32). Đó cũng là lý tưởng của thánh Augustinô bên Tây phương.
III. Giáo hội với đời sống đan tu
Đời sống đan tu thành hình không do một nghị quyết của
giáo quyền. Thậm chí có ý kiến cho rằng các đan sĩ đã rút lên sa mạc, chấp nhận
một nếp sống khắc khổ như là dấu chỉ phản kháng các chức sắc Giáo hội đã bắt
tay với chính quyền Rôma. Dù nói thế nào đi chăng nữa, các giám mục không thể
làm ngơ hiện tượng đan tu.
Như đã nói trong tập Năm, khi nghiên cứu cuốn sách bàn
về cuộc đời thánh Antôn, các học giả ghi nhận rằng thánh Athanasiô không nhằm
viết tiểu sử của vị thánh tu hành tiên khởi cho bằng đề nghị cho các đan sĩ một
con đường nên thánh dựa theo quan điểm của vị giám mục. Chính thánh Athanasiô
đã chia sẻ nếp sống đan tu và được các đan sĩ cho tá túc khi ngài bị chính quyền
truy nã. Thánh Athanasiô cũng phổ biến lý tưởng đời đan tu sang châu Au khi bị
lưu đày.
Với thánh Basiliô thì tình hình thay đổi. Trước khi
làm giám mục, Basiliô đã là một đan sĩ. Kinh nghiệm này có thể đưa đến chỗ áp đặt
kỷ luật đời tu cho toàn thể Giáo hội; tuy nhiên cũng có thể nói ngược lại, đó
là lấy Giáo hội làm lý tưởng cho đời tu. Trên thực tế đây là điều đã xảy ra.
Như đã nói trên đây, bản luật của thánh Basiliô không phải là một văn kiện pháp
lý về thể chế cộng đoàn cho bằng kim chỉ nam thực hành Phúc âm. Mặt khác, lý tưởng
của cộng đoàn đan tu là thể hiện sự thông hiệp, một
khuôn mẫu mà Giáo hội luôn nhắm tới.
Dù sao, có thể ví đời đan tu vào buổi đầu như là một
phong trào cổ võ sống tinh thần Phúc âm triệt để. Đến khi phong trào này lớn mạnh
cũng như những sự lệch lạc và tranh chấp xảy ra đây đó, nhà chức trách trong
Giáo hội phải can thiệp bằng những luật lệ. Văn kiện quan trọng nhất trong thời
các giáo phụ là công đồng Calcedonia (năm 451). Các đan sĩ được nhìn nhận như là một hàng
ngũ (ordo
monachorum) trong Hội thánh bên cạnh hàng giáo sĩ
(ordo
clericorum). Ai muốn thành lập đan viện thì phải
xin phép giám mục. Các đan sĩ phải phục tùng giám mục sở tại.
Tuy nhiên, nên biết rằng các giám mục đều xuất thân từ
hàng ngũ đan sĩ: truyền thống này vẫn còn được duy trì cho đến nay bên các Giáo
hội Đông phương.
[1] Thư tịch. AA.VV. Monachesimo, in: Dizionario degli Istituti di Perfezione, V
(1978), 1672-1742. AA.VV.Monachisme, in: Dictionnaire de Spiritualité, X
(1979), 1524-1617. G.M. Colombas, Il monachesimo delle origini, 2 voll, Jaca Book, Milano 1990. I. Gobry, Storia del monachesimo 2 voll, Città Nuova, Roma 1991. Xem thêm: Về Nguồn, tập IV, trang 533-550; 747-762. Đời sống tâm linh, tập II, trang 97-149.
[2] Cuộc đời của thánh Pacômiô được ghi trong tám (hay
chín) cuốn hạnh tích do các môn đệ viết lại, nhưng chỉ có ba bản Adài@ (trong
đó hai bản viết bằng thổ ngữ coptic - Boharic và Saidic -, và một bản bằng tiếng
Hy-lạp) thì đầy đủ, còn những bản kia chỉ chép được một phần.