ƠN GỌI THỪA SAI THÁNH HIẾN: HUYỀN NHIỆM MỘT TÌNH YÊU
Jos. Vinc. Ngọc Biển
Một niềm an ủi và hy
vọng cho Giáo Hội Việt Nam hiện nay là: các Chủng Viện, các Dòng Tu, Tu Đoàn và
Tu Hội hiện đang rất dồi dào các Tu Sinh và Đệ Tử Sinh. Hiện tình đó quả là đúng
như lời các vị Thừa Sai đã khen Giáo Hội Việt Nam: một mảnh đất màu mỡ,
phong phú ơn Thiên Triệu.
Quả thật, ngày nay tại
Việt Nam có rất nhiều bạn trẻ khao khát tận hiến đời mình cho Chúa qua ơn gọi
thánh hiến, để đáp lại tình yêu cao cả, nhiệm mầu Chúa dành cho mình, với mong
ước được trở thành nhà thừa sai trên cánh đồng truyền giáo. Tuy nhiên, muốn trở
thành nhà thừa sai đúng nghĩa như Chúa và Giáo Hội mong muốn, người thừa sai
phải hiểu, biết, cảm nghiệm và sống ơn gọi cao quý này như một hồng ân và trách
nhiệm...
1.
Thừa sai: một ơn gọi
đến từ Chúa
Trước tiên, ơn gọi
thừa sai phát xuất và xây dựng dựa trên ơn gọi căn bản của Bí tích Rửa Tội. Khi
lãnh nhận Bí tích này, người tín hữu được tham dự vào ba chức năng của Đức
Giêsu là: Tư Tế, Ngôn Sứ và Vương Đế. Vì thế, bản chất của người Kitô hữu là
truyền giáo. Ơn gọi đó được nuôi dưỡng và trọn vẹn qua việc ta lãnh nhận dồi
dào Chúa Thánh Thần qua Bí tích Thiêm Sức: “Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì
Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người
đã sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ
được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức” (Lc 4,18). Trong thư luân
lưu của Bộ Giáo sĩ về căn tính truyền giáo của Linh mục, có nói: “Sứ
vụ truyền giáo của Giáo Hội là sứ vụ được lãnh nhận từ Chúa Giêsu Kitô với ân
huệ của Chúa Thánh Thần. Sứ vụ này là duy nhất, và được trao phó cho mọi thành
phần Dân Chúa [...]. Sứ vụ này mở rộng cho mọi người, mọi văn hoá, mọi nơi và
mọi lúc”#. Thánh Công đồng Vat. II cũng nhắc đến như một lời minh định:
“Giáo hội lữ hành trên trần thế tự bản chất là truyền giáo, theo chương trình
của Thiên Chúa Cha, và xuất phát từ sứ vụ của Chúa Con và Chúa Thánh Thần”#.
Ơn gọi tận hiến là một
huyền nhiệm, sứ mạng thừa sai bắt ngồn từ Thiên Chúa và được Người ủy thác.
Thái độ của ta là đón nhận với cả tấm lòng tri ân, quảng đại và xả thân vì sứ
vụ. Nói như thánh Phaolô: “Khốn thân tôi, nếu tôi không rao giảng Tin
Mừng” (1 Cr 9, 16); bởi vì: “Tình yêu Đức Kitô thúc bách tôi”(2
Cr 5, 14) và: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô” (Pl
1, 21).
Tuy nhiên, đứng trước
lời mời gọi đầy tình yêu của Thiên Chúa, ít ai có thể coi là xứng đáng và can
đảm như ngôn sứ Isaia: “ Này con đây, xin hãy sai con” (Is 6,8). Vì
thế, nhiều khi lại còn biện minh là không xứng đáng, hay không có khả năng để
trở thành một tu sĩ thừa sai cho Chúa, để phục vụ Giáo Hội và được sai đến với
muôn dân trên cánh đồng truyền giáo. Lo lắng và băn khoăn là thế, nhưng gẫm lại
ta thấy: có ai trong con cái loài người có thể cho là mình xứng đáng, là đủ
điều kiện và khả năng tham gia vào công tác tông đồ để gieo trồng và phát triển
Hội Thánh Chúa Kitô?
2.
Sự yếu đuối của người
được sai đi
Đọc lại lịch sử cứu
độ, ta thấy những phản ứng của Môsê trước lệnh truyền của Chúa để đi đến gặp
vua Pharaô, thuyết phục nhà vua cho con cái Iraen ra khỏi Aicập. Ông đã đưa ra
nhiều lý lẽ để từ chối, ông nói: Chúa coi, tôi là ai mà dám gặp Pharaô, hay,
tôi là người ăn nói không được dễ dàng, không văn hoa làm sao vua Pharaô chịu
nghe tôi! Thậm chí ông còn thưa với Chúa rằng: “Chúa ơi xin xá lỗi cho
con. Xin Chúa sai ai đi làm môi giới thì sai, con không phải là kẻ có tài ăn
nói, vì con cứng miệng cứng lưỡi […] Xin Chúa sai Aharon anh con, anh ấy ăn nói
hay hơn con nhiều”( Xh 4,10-13). Ngôn Sứ Isaia lúc ban đầu cũng cảm thấy
mình vô dụng trước lời mời gọi của Chúa. Lúc đó, ông đang ở trong đền thờ
Giêrusalem thì được Thiên Chúa bày tỏ cho thấy thị kiến. Khi đối diện với vinh
quang của Thiên Chúa, ông thấy mình quá bất xứng và đã thốt lên: “Khốn
thân tôi, tôi chết mất. Vì tôi là một người môi miệng ô uế! Làm sao tôi
có thể nói nhân danh Đấng Thánh được?” ( Is 6,1-8). Hay như ngôn Sứ
Giêrêmia cũng thế thôi. Khi được Thiên Chúa gọi, ông đã phân bua:“Lạy Chúa
là Chúa thượng, con đây còn quá trẻ, con không biết ăn nói”(Gr 1,6). Ngay
cả Đức Maria cũng vậy. Trước lời mời gọi của Chúa qua lời Sứ Thần truyền tin Mẹ
sẽ cưu mang Đấng Cứu Thế. Bàng hoàng, ngỡ ngàng, Mẹ đã thốt lên: việc đó xảy
đến thế nào được... (x Lc 1, 26-38).
Lo lắng, hoang mang trước
một biến cố hay trách nhiệm lớn lao là lẽ thường tình. Nhưng kể như khi
con người bất lực thì: “Ơn Ta đủ cho con” (2Cr 12,9) và “Khi tôi
yếu chính là lúc tôi mạnh!” ( 2.Cor 12, 10). Vì có ơn Chúa ở cùng.
3.
Ơn Chúa bao phủ lên
yếu đuối của người được sai
Đứng trước những phản
ứng vì yếu đuối và bất xứng của con người như vậy, Thiên Chúa đã khẳng định
quyền năng và tình thương của Ngài vượt lên trên tất cả:“Ta sẽ ở với ngươi,
Ta sẽ đặt lời Ta vào miệng ngươi, và Ta sẽ chỉ cho ngươi biết những gì người
phải làm” (Xh 4,15). Với ngôn sứ Giêrêmia, Chúa cho ông biết rõ ơn gọi
và sứ mạng của ông đã được Thiên Chúa tiền định: “Trước khi ngươi thành
hình trong dạ mẹ, Ta đã biết ngươi; trước khi ngươi lọt lòng mẹ, Ta đã thánh
hoá ngươi, Ta đặt ngươi làm ngôn sứ cho muôn dân” (Gr 1,4). Và, với Mẹ
Maria thì:“Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Ðấng Tối Cao sẽ
rợp bóng trên bà...” (Lc 1, 35). Thánh Phaolô cũng quả quyết: “Tôi
là kẻ rốt hết trong dân thánh, thế mà Thiên Chúa đã ban cho tôi ân sủng này là
loan báo cho các dân ngoại Tin Mừng về sự phong phú khôn lường của Đức
Kitô” (Ep 3,8)
Như thế, chúng ta đã
thấy rõ, ơn gọi phát xuất từ chính cung lòng của Thiên Chúa trong tình yêu
thương. Người gọi chúng ta không phải chúng ta có tài cán hay công trạng gì.
Người gọi chúng ta chỉ vì Người yêu thương chúng ta. Và, Người chọn ai
thì đồng thời Người cũng ban những ơn cần thiết để người đó chu toàn sứ mạng mà
mình đã lãnh nhận từ nơi nơi Người. Điều quan trọng trước tiên là tin: “Nếu
anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thì dù anh em có bảo cây dâu nầy: Hãy bật
rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em” (Lc
17, 5- 6). Niềm tin ấy được Chúa Giêsu củng cố: “Tâm hồn các con đừng
sao xuyến và đừng sợ hãi” (Ga 14,27. Có thế, sứ mạng truyền giáo mới
thực sự khả tín vì nó được khởi đi từ Tình yêu, lớn lên trong Tình yêu và được
Tình yêu thúc đẩy. Tuy nhiên, khiêm tốn để trao truyền sứ mạng này là điều cần
thiết nếu không muốn nói là cấp bách.
4.
Khiêm tốn là yếu tố
cần cho sứ vụ truyền giáo của nhà thừa sai
Thiên Chúa qua muôn
thế hệ, Người vẫn muốn dùng những con người bất toàn, yếu đuối để làm ngôn sứ,
làm phát ngôn viên giới thiệu tình yêu của Chúa cho thế giới.
Trong bài ca Magnificat, Mẹ Maria đã thốt lên: “Lòng
thương xót Chúa trải qua đời nọ đến đời kia dành cho những ai kính sợ Chúa.
Chúa đã vung cánh tay ra oai thần lực, dẹp tan những ai lòng trí kiêu căng.
Chúa lật đổ người quyền thế xuống khỏi ngai vàng, và nâng cao những người phận
nhỏ. Chúa đã cho người đói khát no đầy ơn phước, và để người giàu có trở về tay
không” (Lc 1, 50-53). Sự khiêm tốn là yếu tính của sứ vụ này, qua đó
người thừa sai xác định được cái “là” và cái “làm”. Nếu
người thừa sai đi trệch con đường này, họ đã làm lu mờ và mất đi lý do hiện hữu
và sứ vụ của mình. Vì thế, “Giáo Hội được mời gọi để phục vụ nhân
loại, trong phong cách của vị Thiên Chúa – người: một vị Thiên Chúa không những
đảm nhận lấy bản tính nhân loại, trở nên người phàm, mà còn trở nên tôi tớ
Thiên Chúa và tôi tớ của con người nữa. Là tôi tớ Thiên Chúa, trong mức độ mà
Giáo Hội chỉ sống dựa vào sức mạnh của Lời Chúa, Lời đem lại năng lực ơn cứu
độ, Lời của tình yêu trao ban trong những người hèn mọn, ngay cả Lời hiện diện
trong những người nghèo và bé mọn. Người tôi tớ đau khổ của Giavê là kiểu mẫu
hoàn hảo của sự tự hạ, Chúa Kitô trên thập giá là sự thể hiện cách đầy đủ tình
yêu của Thiên Chúa”#.
Như vậy, trong tình yêu của Thiên Chúa, mỗi người chúng ta điều
có quyền tin tưởng rằng: Chúng ta có thể làm được mọi sự trong Đấng ban sức
mạnh cho chúng ta. (x. Pl 4,13). Thánh Gioan Maria Vianney cũng quả quyết điều
đó khi ngài bị ban Giam Đốc Chủng Viện chê trách chỉ vì học hành kém cỏi không
bằng một con lừa. Trong niền xác tin vào ơn Chúa trợ giúp, Ngài nói: Samson chỉ
với một cái hàm lừa mà còn đánh bại 3.000 quân Philitinh, huống hồ cả một con
lừa như con, lẽ nào Chúa lại không sử dụng vào việc gì được hay sao? Kết quả,
trong sự khiêm nhường, ngài đã thành công rực rỡ và lớn lên trong sự cảm nghiêm
sâu xa về tình yêu của Thiên Chúa. Cuối cùng Ngài đã đem về cho Chúa biết bao
Linh hồn tội lỗi mà ngài vẫn thường gọi đó là “những con cá bự”. Sau
này ngài trở thành vị đại thánh và bổn mạng các cha sở trên toàn thế giới.
Thay lời kết
Như vậy, ta đã thấy
rõ: ơn gọi phát xuất từ chính Chúa, do lòng yêu thương của Người từ muôn đời
qua muôn thế hệ: “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã
chon anh em” (Ga 15,16). Bổn phận của chúng ta là đáp lại tình
yêu ấy bằng chính sự quảng đại, sẵn sàng hiến toàn thân cho Thiên Chúa để Người
sử dụng ta theo thánh ý Người trong công trình cứu chuộc thế giới. Tuy nhiên,
vì mang trong mình sự yếu đuối, nên ta cần đến ơn Chúa trợ lực để có thể thi
hành sứ mạng rao giảng Lời cứu độ cho con người và thế giới. Chính Đức Thánh
Cha Bênêđictô XVI đã khơi lên trong phần suy niệm trước phiên khoáng đại
đầu tiên của Thượng HĐGM Thế giới kỳ thứ 13: “Lời đầu tiên, sáng kiến
đích thực, hoạt động thực sự đến từ thiên Chúa và chỉ khi nào chúng ta tháp
nhập vào sáng kiến ấy của Chúa, chỉ khi nào chúng ta cầu khẩn sáng kiến ấy của
Chúa, thì chúng ta mới có thể trở thành những người rao giảng Tin Mừng - với
Chúa và trong Chúa”#. Mặt khác, sự khiêm tốn như một thửa đất tốt để hạt
giống của “Lời” được đâm trồi nẩy lộc và sinh nhiều hoa
quả tốt tươi.
Như vậy, thiết nghĩ ơn
gọi thừa sai của chúng ta là tìm thấy sự thật viên mãn về căn tính của mình
trong khi là một sự xuất phát từ Chúa Kitô, một sự tham dự đặc thù trong Chúa
Kitô và sự tiếp nối chính Chúa Kitô, như thế chúng ta chính là hình ảnh sống
động và trong sáng của Chúa Kitô.