(daminhvn.net) 20/05/2015
Tại sao các nữ tu đội lúp? Các ni cô
Phật giáo cũng bịt đầu như vậy. Cái lúp có ý nghĩa gì không?
Tôi không biết rõ lịch sử của đời tu bên Phật
giáo, cho nên không dám so sánh ý nghĩa giữa các nữ tu với các ni-cô. Tuy
nhiên, dù không phải là một chuyên viên về y phục chúng ta thấy rằng ở Việt Nam
không phải chỉ có các nữ tu hay là các ni cô mới đội khăn che đầu. Có rất nhiều
miền tại Việt Nam, các phụ nữ luôn đội khăn trên đầu, nổi tiếng là lối chít
khăn mỏ quạ. Tôi xin để cho các nhà khảo cứu nhân văn nghiên cứu nguồn gốc lai
lịch của tục lệ đó. Riêng tôi, hồi nhỏ sống ở Đàlạt, tôi thấy rất nhiều phụ nữ
đội khăn trùm đầu. Lý do rất dễ hiểu: bởi vì Đàlạt là xứ lạnh cho nên các ông
tìm cách che đầu bằng các thứ mũ len, còn các bà thì lấy khăn mà trùm. Nếu các
bà đã có tóc dài mà còn phải đội khăn, thì các bà tóc ngắn hay không có tóc lại
càng có lý để mà đội khăn hơn nữa. Đến đây, ta thấy có một sự khác biệt lớn giữa
các ni cô và các nữ tu: đó là ở dưới cái khăn, một bên đã cạo tóc, còn một bên
thì để tóc, ngắn dài tùy trường hợp.
Như vậy, các nữ tu đội lúp để che bộ
tóc thôi hay sao?
Tôi không có ý nói như vậy! Đó mới chỉ là giáo đầu mà thôi, nhằm
cho thấy rằng việc đội khăn lên đầu là một phong tục gặp thấy ở nhiều nơi trên
thế giới. Vấn đề được đặt ra là tìm hiểu ý nghĩa, nguồn gốc và công dụng của
nó. Như đã nói trên, tôi sẽ không bàn tới nguồn gốc các khăn đội đầu của các phụ
nữ Việt Nam, tôi cũng sẽ không đi vào ý nghĩa của các khăn đội đầu của các ni
cô, nhưng chỉ muốn trình bày nguồn gốc và ý nghĩa của các lúp của các nữ tu.
Thoạt tiên, khi mở Tân ước chúng ta thấy một đoạn văn trong thư thứ nhất
Côrintô, chương 11, thánh Phaolô muốn rằng khi cầu nguyện các phụ nữ phải đội
khăn che đầu, nhưng mà người nam thì không che đầu. Thánh tông đồ cũng lại thêm
rằng các phụ nữ mà không đội khăn thì như là trọc đầu vậy, và đó là một điều xấu
hổ, bởi vì phụ nữ phải để tóc dài. Ngược lại, người nam thì không nên để tóc
dài và cũng không đội khăn lên đầu. Thánh Phaolô đã đưa ra những lý do thần học
để giải thích cho tục lệ này, như ta đọc thấy ở câu 7: “người nam không được
che đầu, bởi vì là hình ảnh và vinh quang của Thiên Chúa; còn người nữ là vinh
quang của người nam”. Các nhà chú giải Kinh thánh đã tranh luận rất nhiều về ý
nghĩa của đoạn văn này. Không rõ là thánh Phaolô muốn biện minh cho một tục lệ
địa phương về việc các phụ nữ đội khăn lên đầu; hay là ngài chỉ muốn bài trừ một
thói tục hỗn độn ở Côrintô, nơi mang tiếng là phong tục suy đồi, không còn phân
biệt phái tính nữa: các cậu thì để tóc dài, còn các cô thì cắt tóc ngắn. Theo một
vài nhà chú giải gần đây, thánh Phaolô chủ trương rằng người nam cần tỏ ra nam
tính qua việc cắt tóc ngắn, để đầu trần; còn người nữ thì hãy biểu lộ nữ tính,
qua việc để tóc dài và trùm khăn đầu.
Phải chăng đây là nguồn gốc của việc
các nữ tu đội lúp?
Có lẽ kết luận như vậy thì hơi vội vàng. Thánh
Phaolô không có ý định bắt buộc hết mọi phụ nữ phải để tóc dài và trùm khăn.
Ngài chỉ giới hạn vào kỷ luật trong các buổi hội cầu nguyện tại Côrintô mà
thôi. Ở câu 16 của chương 11, thánh Phaolô chấp nhận rằng không phải là đâu đâu
cũng có thói tục như vậy. Dù sao theo các nhà sử học, cần phải tìm nguồn gốc
cái lúp của các nữ tu ở chỗ khác, tức là ở nghi lễ hôn nhân tại Rôma. Tại đây
các cô dâu khi làm lễ cưới thì đội chiếc khăn lên đầu, Đến khi phụng vụ muốn
tìm ra một biểu hiệu cho nghi thức cung hiến các trinh nữ, thì người ta quy chiếu
vào nghi thức hôn nhân. Tại sao vậy? Lý do là vì các giáo phụ (tựa như thánh
Ambrôxiô) đã ví các trinh nữ như là Hiền thê, bạn trăm năm với đức Kitô. Bởi
đó, lễ cung hiến trinh nữ cũng được ví như là lễ kết hôn với đức Kitô, gắn bó với
Ngài như là bạn trăm năm.
Nhưng mà ngày nay, khi cưới nhau, thì
các cô dâu chú rể trao nhẫn cho nhau như biểu hiệu của lòng chung thủy chứ đâu
có đội khăn trùm mặt gì nữa đâu?
Tại Âu châu, nhiều nơi vẫn còn giữ tục lệ là cô dâu đội khăn
voile trong nghi thức hôn nhân. Nếu tôi không lầm thì tại một vài thành thị Việt
Nam, người ta cũng du nhập tục lệ đó. Cô dâu mặc y phục trắng, với tấm khăn
voile không những trùm đầu mà trùm cả thân người và kéo dài thành cái đuôi nữa.
Nhưng chỉ có trong lễ cưới thôi, chứ sau đó thì cô ta chẳng bao giờ trùm voile
nữa. Còn các nữ tu thì khác, họ đội cái lúp suốt đời. Dù sao thì đó mới chỉ là
vắn tắt để cho chị có một cái khái niệm về nguồn gốc và ý nghĩa của tục lệ các
nữ tu đội lúp. Chúng ta cần phải đi sâu vào vấn đề hơn tí nữa.
Tôi không rõ là chữ “lúp” bởi đâu mà có. Không
hiểu nó có họ hàng gì với tiếng “lấp” hay không? Xin để dành việc tầm nguyên
cho các nhà ngữ học. Trong tiếng Pháp, người ta gọi nó là “voile”. Và ở Việt
Nam, chúng ta thấy rằng cái voile không chỉ hiểu về cái lúp của các nữ tu mà
còn hiểu cho cả thứ hàng vải thưa. Tại sao lại có chuyện đó? Chúng ta phải trở
về với nguồn gốc lịch sử của nó. Voile trong tiếng Pháp dịch từ velum của tiếng
La-tinh. Danh từ “velum” gốc bởi động từ “velare” có nghĩa là che đậy. Có lẽ là
chị sẽ liên tưởng ngay tới tấm khăn che đầu, nhưng không phải như vậy. Các cô vẫn
được tiếng là thuộc phái đẹp. Người ta đã chẳng ví các thiếu nữ như là bông hoa
biết nói đó là gì? Ấy nhưng mà bông hoa đẹp thì phải cho vào chậu kiểng thì mới
giữ được lâu, chứ phơi ngoài trời thì chỉ được mấy tiếng đồng hồ là héo tàn!
Xin lỗi, có lẽ tôi đang tán bậy. Nhưng mà ta thấy phong tục của nhiều nơi đã muốn
rằng khi các cô đi ra đường thì không những phải che đầu cho khỏi nắng mà còn
phải che mặt nữa, kẻo bị người khác hái mất cái đẹp của mình. Nói cách khác,
vào thời xưa cái voile không phải chỉ trùm đầu mà còn trùm cả khuôn mặt nữa. Và
thiếu nữ chỉ vén màn che mặt cho người nào đáng được chiêm ngắm sắc đẹp của
mình.
Trong phong tục hôn nhân tại Rôma thời cổ, việc che và vén màn
là cao điểm của lễ nghi. Cô dâu che mặt của mình, dĩ nhiên là không phải là
trùm chăn bít kín đầu, nhưng là với vải thưa (mà ta gọi là vải voile), và chỉ
có người chồng mới được vén khăn lên. Từ đó, người Rôma gọi việc hôn nhân là
nubere, có nghĩa là che mặt. Tục lệ này cũng được du nhập vào nghi thức hôn
nhân Kitô giáo, từ thế kỷ IV.
Tuy nhiên, một cuộc tranh luận đã nảy ra giữa các nhà nghiên cứu
lịch sử phụng vụ, bắt nguồn từ chỗ nghi thức chúc lành cái voile của các trinh
nữ và nghi thức chúc lành cái voile của các cô dâu đều xuất hiện vào thế kỷ IV.
Thế thì ai mượn của ai? Phải chăng các trinh nữ muốn bắt chước các cô dâu, hay
là các cô dâu cũng muốn cho cái voile của mình được chúc lành theo gương các
trinh nữ? Cho đến nay, cuộc tranh luận vẫn chưa có ngã ngũ. Tuy nhiên, có điều
cần lưu ý là tại một số Dòng nữ cận đại, vào ngày mặc áo dòng, các thỉnh sinh bận
y phục sang trọng như các cô dâu, rồi sau đó, họ đã cởi bộ đồ cưới đó, để khóac
vào chiếc áo dòng hèn mọn. Đó là một nghi thức nhằm nêu bật rằng giữa hôn nhân
trần thế và hôn nhân thần bí, có những điểm tương đồng nhưng cũng không thiếu
những điểm khác biệt. Vào thời cổ, điểm khác biệt đó được diễn tả một cách đơn
giản hơn. Trong khi mà các thiếu nữ ngoài đời đội voile với hàng đắt tiền quý
giá, thì các trinh nữ đội voile hàng rẻ tiền, và với màu đen, màu của tang chế,
thường dành cho các bà góa.
Nhưng mà cũng có nhiều nữ tu đội lúp
trắng đấy chứ?
Vào các thế kỷ đầu tiên, chưa có các nữ tu khấn
dòng, mà chỉ có các trinh nữ tận hiến. Họ là những phu nữ tận hiến cho Thiên
Chúa qua một lễ nghi do Đức Giám mục chủ sự, với nghi thức chính là lời nguyện
thánh hiến, và chúc phúc cái voile. Kế đó, các trinh nữ trở về sống tại gia
đình giống như các thiếu nữ khác. Đến khi xuất hiện các Dòng tu (với các đan viện
hay tu viện), thì các nữ tu cũng mang cái lúp như là biểu hiệu của sự tận hiến.
Và các nữ tu chỉ mang lúp từ khi dấn thân vĩnh viễn. Dần dần, các tập sinh cũng
được đội lúp, nhưng mà để phân biệt với các người đã khấn trọn đời, thì các tập
sinh đội lúp màu trắng. Đó là hai cái màu căn bản của các lúp: màu đen dành cho
những ai đã khấn, và màu trắng dành cho các tập sinh. Dần dần, con số các Dòng
tu tăng gia, và mỗi Dòng cố gắng trình bày căn cước của mình qua màu áo cũng
như là qua màu lúp. Từ đó mà ta thấy hiện tượng trăm hoa đua nở.
Tóm lại, thời xưa, dấu hiệu của đời tận
hiến là cái lúp chứ không phải là chiếc nhẫn hay sao?
Đúng như vậy. Nhưng mà cần phải thêm rằng nghi thức hôn nhân và
nghi thức cung hiến không phải chỉ bao gồm việc trùm mặt hay vén voile. mà còn
có nhiều chi tiết khác nữa, chẳng hạn như việc đội triều thiên lên đầu.
Trong các nghi thức cung hiến trinh nữ, bên cạnh
việc chúc lành tấm voile, từ thế kỷ XIII, người ta du nhập thêm tục lệ trao nhẫn,
như là biểu hiệu của sự chung thủy. Ngày nay, chúng ta thấy nhiều nữ tu chỉ có
đeo nhẫn, chứ không còn mặc tu phục, lại càng không có chuyện đội lúp. Tôi
không dám phê phán thói tục đó, bởi vì phần nào trong xã hội ngày nay, cái lúp
không còn ý nghĩa đối với phụ nữ như là thời xưa nữa. Tại Âu châu, có lẽ chỉ
còn các nữ y tá trong các bệnh viện là còn duy trì cái lúp như là biểu hiệu của
nghề nghiệp của mình. Tại Âu châu ngày nay, biểu hiệu của hôn nhân là chiếc nhẫn.
Chỉ cần xem tay có đeo nhẫn hay không, đủ biết là người đó đã kết hôn hay chưa.
Các nữ tu đã khấn dòng đeo nhẫn như dấu hiệu của việc kết hôn thiêng liêng với
Chúa Kitô.
Vậy vấn đề đặt ra là: tại sao các nam tu sĩ, tuy đã khấn dòng lại
không đeo nhẫn? Xin thưa rằng có lẽ tại vì đã có người khác lấy mất rồi. Đó là
các giám mục. Trong nghi lễ tấn phong các giám mục lãnh nhận chiếc nhẫn, biểu
hiệu cho lòng tận tụy với Hội thánh, hiền thê của đức Kitô. Tuy nhiên, ý nghĩa
của từ ngữ “Hội thánh” ngày nay không còn như xưa nữa. Thời nay, người ta hiểu
Hội thánh theo nghĩa là Hội thánh toàn cầu. Thời xưa, người ta hiểu Hội thánh
như là một giáo đoàn địa phương. Giám mục được đặt lên để phụ trách giáo đoàn
đó, và phải gắng mà chung thủy cho đến chết. Bởi thế, thời xưa không có chuyện
thuyên chuyển từ giáo phận này sang giáo phận khác; bởi vì làm như vậy là ngoại
tình, thiếu chung thủy. Nhưng mà tôi xin gác chuyện của các Giám mục vào dịp
khác. Chỉ cần ghi nhận rằng các đôi hôn nhân hay các giám mục thì mang nhẫn
vàng, chạm trổ ngọc quý, còn các nữ tu chỉ mang nhẫn bằng kẽm, bằng thiếc gì
đó. Nó là biểu hiệu của cuộc hôn nhân với Chúa Kitô khó nghèo, chết trần trụi
trên thập giá.
Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP.