CHÚA
NHẬT 2 PHỤC SINH C
PHÚC CHO
AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
+++
A. DẪN NHẬP
Chính ngày Phục sinh, Đức Giêsu đã hiện
ra với các Tông đồ tại nhà Tiệc ly để làm cho các ông tin rằng Ngài đã sống lại
thật, đồng thời trao cho các ông nối tiếp sứ mạng của Ngài, và ban Thánh Thần để các ông có quyền
tha tội. Nhưng trong dịp này, rất tiếc ông Tôma lại vắng mặt, có lẽ vì ông sợ
quá phải tránh xa, và ông cũng không tin lời chứng của các Tông đồ kia.
Tám ngày sau, Đức Giêsu lại thương hiện
ra để củng cố niềm tin cho các Tông đồ, cách riêng cho Tôma. Khi Tôma được thấy
những lỗ đinh ở tay và cạnh sườn Ngài thì đã tuyên xưng đức tin một cách chân
thành :”Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa
của con”. Tôma đã xem thấy nên đã tin và tuyên xưng một cách mạnh mẽ : Đức
Giêsu là Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu nói với ông :”Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai không
thấy mà tin”.
Sự hoài nghi và cứng lòng của Tôma cũng
có ý nghĩa đối với chúng ta : ông không tin, rồi lại tin khi xem thấy Chúa, điều
ấy nhắc nhở cho chúng ta biết rằng chúng ta không tin vào việc Chúa sống lại qua mấy lời nói suông nhưng dựa vào một người
đã tận mắt xem thấy hay thọc ngón tay vào lỗ đinh và đã tuyên xưng đức tin một
cách thành thật.
Dựa vào Kinh thánh và lời chứng của các
Tông đồ, chúng ta tuyên xưng Đức Kitô đã sống lại :”Ngày thứ ba Người sống lại như lời Thánh kinh” (Kinh Tin kính) và
chúng ta có bổn phận phải loan truyền cho người khác biết Chúa đã sống lại thật
để nhiều người được hưởng ơn Phục sinh của Chúa và được hưởng ơn cứu độ muôn đời.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài
đọc 1 : Cv 5,12-16.
Qua trích đoạn sách Công vụ, thánh
Luca mô tả cho chúng ta cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Họ thường hội họp ở hành
lang Salômôn và được dân chúng ca tụng. Chúa Phục sinh ban quyền năng cho các Tông
đồ làm nhiều phép lạ, đặc biệt là thánh Phêrô.
Trong khi làm phép lạ, các ông cũng nhân
dịp tranh thủ rao giảng sứ điệp Phục sinh để đem nhiều người tin theo Đức Kitô.
Số tín hữu mỗi ngày một tăng thêm làm thành một cộng đoàn chứng nhân của Đức
Kitô Phục sinh.
Khi các Kitô hữu nhận thức được Nước
Thiên Chúa đang từ từ tiến triển trong thế gian, họ sẽ khám phá ra rằng Đấng Phục
sinh ngày càng hiện diện giữa nhân loại
nhờ chứng tá của các Tông đồ và của họ, ngõ hầu thế giới ngày càng trở nên
nơi ở tốt hơn cho mọi người.
+ Bài
đọc 2 : Kh
1,9-11a.12-13.17-19.
Hôm ấy là một ngày Chúa nhật, tín hữu
mừng biến cố Phục sinh của Chúa. Thánh Gioan, vì rao giảng Lời Chúa và lời chứng
của Đức Giêsu, lúc đó đang bị lưu đầy ở đảo Patmos, đã xem thấy một thị kiến vĩ
đại mở màn cho sách Khải huyền. Thánh nhân đề tặng cuốn sách cho bảy Giáo hội địa
phương tức là cho toàn thể Giáo hội, vì số 7 là số tròn đối với người Do thái.
Nhân vật trung tâm trong thị kiến là Con Người, Đấng đã nhận quyền thống trị mọi
loài mọi thời, tức là Đấng Phục sinh đã mở cửa sự sống ra cho các tín hữu.
Ngoài ra, thị kiến trong sách Khải huyền
còn nhằm an ủi và khích lệ kẻ đang bị bắt bớ :”Đừng sợ…Ta là Đấng hằng sống. Ta chết và nay Ta sống đến muôn thuở muôn
đời; Ta giữ chìa khóa của Tử thần và Aâm phủ”.
+ Bài
Tin mừng : Ga 20, 19-31.
Đoạn kết Tin mừng của thánh Gioan (chương
21 được thêm vào sau này) là một lời mời gọi cuối cùng để hiểu đúng qui chế thực
sự của đức tin. Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ nhằm hướng họ về tương
lai và chứng tỏ giờ đây Ngài hiện diện bởi Thánh Thần trong sự phát triển công
cuộc truyền giáo của Hội thánh.
Chúa Kitô phục sinh hiện ra với các Tông
đồ đã mang lại cho các ông niềm vui và bình an của ơn cứu độ mà Chúa ủy thác
cho các ông nhiệm vụ loan báo cho mọi ngườiø. Việc ông Tôma kém lòng tin đã là
một dịp để thánh Gioan đề cập đến điểm
then chốt của Tin mừng (theo Gioan) là : mỗi người sau khi nghe các Tông đồ giảng
và được ơn soi sáng bên trong, phải tự biết mình dấn thân cho lòng tin chứ không ai tìm dùm cho mình.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Phúc
cho ai không thấy mà tin.
I. BỐI CẢNH HAI LẦN
HIỆN RA.
Ngày lễ Phục sinh chúng ta chỉ đề cập đến
ngôi mộ trống, việc đó chưa xác định được việc Chúa sống lại. Nhưng trong suốt
tuần bát nhật này, chúng ta đề cập tới
việc Đức Giêsu hiện ra nhiều lần với nhiều người, sự kiện đó chứng tỏ rằng Đức
Giêsu đã sống lại thực sự hiện ra chứ không phải tà ma. Đức Kitô hiện ra với các
môn đệ trao cho các ông nối tiếp sứ mạng của Ngài và ban Thánh Thần cho các ông.
Mối hoài nghi của Tôma đã được giải quyết khi Đức Giêsu lại tái hiện. Sau khi được
chạm tới các vết thương, Tôma liền tuyên xưng lòng tin của mình. Ông tuyên xưng
như thế là người có phúc, nhưng ai không trông thấy mà tin thì có phúc hơn.
1. Hiện ra lần thứ nhất.
Sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần, các
phụ nữ ra viếng mồ Chúa và trông thấy mồ trống. Phêrô và Gioan cũng xác nhận điều
ấy. Sự kiện này làm dân chúng xôn xao, nhà cầm quyền điên đầu vì khó xử, các môn
đệ nửa tin nửa ngờ nên qui tụ nhau lại để bàn bạc, cầu nguyện, nhưng vì có tiếng
đồn các môn đệ đã lấy trộm xác Đức Giêsu nên các ngài sợ bị theo dõi, đã đóng
kín cửa phòng họp lại.
Ngay buổi chiều hôm đó, Đức Giêsu hiện
ra cùng các môn đệ đang ẩn náu trong căn phòng Tiệc ly. Họ thấy Ngài hiện diện
giữa họ mà không cần mở cửa vào vì xác thân Ngài nay đã biến thành linh thiêng,
nhưng để đánh tan sự hiểu lầm Ngài là hồn ma hiện về, Đức Giêsu chỉ cho các ông
thấy vết thương nơi hai tay và cạnh sườn : chính thật là Chúa nay đã phục sinh.
Ngoài ra, Đức Giêsu còn hai lần chào họ
bằng kiểu người Do thái chào khi gặp nhau. Những lời của Ngài khiến các tông đồ
lấy lại bình tĩnh cũng như xua tan sự xấu hổ làm nặng lòng các ông vì đã bất
trung với Ngài. Các ông không còn nghi ngờ gì việc Chúa sống lại, không phải dựa vào lời chứng
của ai khác mà chính Ngài hiện diện giữa các ông bằng xương bằng thịt. Nhưng rất
tiếc, lúc này ông Tôma vắng mặt không biết vì lý do gì, ông được các tông đồ kể
lại cho biết Chúa đã sống lại và hiện ra với các ông. Tôma không tin mà còn thách
thức :”Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở
tay Ngài, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào
cạnh sườn Ngài, thì tôi không tin”(Ga 20,25).
2. Hiện ra lần thứ hai.
Tám ngày sau, các môn đệ họp nhau
trong nhà, có Tôma ở với các ông. Đức Giêsu lại hiện ra với các ông trong cùng
một khung cảnh như lần trước, nhưng lần này có cả Tôma ở đây như là một cái cớ để
Ngài hiện ra lần này.
Việc Đức Giêsu hiện ra nói lên : Ngài
kiên nhẫn chấp nhận những thách thức của Tôma… Nhưng khi Ngài hiện ra, ta không
thấy Tin mừng nói Tôma có xỏ ngón tay và bàn tay như ông đòi hỏi hay không ? Nhưng
ta hiểu là Tôma đã không kiểm nghiệm như ông đã đòi hỏi. Chỉ nguyên việc gặp gỡ
và nghe lời Chúa nói đã đủ đánh động con người ấy.
Khi được trông thấy Chúa, Tôma xúc động,
không dám kiểm nghiệm như mình đã đòi hỏi trước kia mà chỉ biết kêu lên với tất
cả tấm lòng:”Lạy Chúa của con. Lạy Thiên
Chúa của con”. Tôma là người môn đệ cuối cùng tin Chúa sống lại, nhưng lại
là người đầu tiên xưng nhận thần tính của Ngài. Lời xưng nhận ấy là tuyệt điểm
của lòng tin. Theo cha Garigou Lagrange, một học giả Kinh thánh nổi tiếng : đây
là lần thứ nhất Đức Giêsu được gọi bằng danh hiệu “Thiên Chúa” rõ rệt. Cho nên đây là một tác động đức tin hoàn toàn và
quyết liệt sau một thời gian hoài nghi và từ khước.
II. NÓI VỀ CON NGƯỜI
TÔMA
1. Bản chất con người Tôma.
Tôma có biệt hiệu là Điđimô có nghĩa là
con sinh đôi, ông vốn là người có tính thẳng thắn, rõ ràng và thực tiễn. Ôâng rất
nhiệt tình với Chúa, dám liều chết với Ngài. Chúng ta có thể đưa ra một vài bằng
chứng :
a) Khi Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng:’Con đường Thầy đi, sau này họ cũng sẽ đi”.
Tôma liền thưa:”Nhưng chúng con không biết
Thầy đi đâu, thì làm sao biết được đường lối của Thầy”(Ga 14,5).
b) Khi thấy Đức Giêsu dứt khoát muốn lên
Giêrusalem bất chấp nguy hiểm, thì Tôma lại bảo anh em: “Nào cả chúng ta nữa, hãy lên Giêrusalem chịu chết với Ngài”.
c) Tôma vẫn giữ tính đó khi nghe Đức Giêsu
sống lại, Tôma đã không căn cứ vào sự kiện ngôi mồ trống, những bài Thánh kinh,
nhất là lời Đức Giêsu nói trước về sự sống lại. Ngay cả việc Ngài hiện ra với các
môn đệ khác vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nhưng Tôma đòi những điều kiện
khả giác chắc chắn là : nhìn thấy vết đinh, thọc ngón tay vào lỗ đinh.
2. Con người hoài nghi và thực tiễn.
Qua câu truyện Tin mừng kể lại, có người
coi ông Tôma là “bổn mạng” của các kẻ hoài nghi, cứng lòng, hoặc như “ ông tổ”
của phái duy lý, duy thực nghiệm. Nghĩ như thế thì hơi quá đáng và bất công. Phải
chăng sau này triết gia Descartes, ông tổ của hoài nghi, đã lấy hoài nghi làm phương pháp luận để đề
ra “Hoài nghi có phương pháp” (doute méthodique) để làm nền tảng cho triết thuyết của ông ?
Trường hợp của Tôma đặc biệt soi sáng chúng
ta. Ôâng đã chứng tỏ một sự chân thành thật thú vị. Ôâng không hề cố gắng che đậy
những nghi ngờ của mình. Người ta thường nhìn sự hoài nghi như là một dấu hiệu
của sự yếu đuối. Chúng ta thường hay mặc cảm tội lỗi, vì đã có những hoài nghi.
Nhưng hoài nghi có thể là một điểm nói lên sự đang phát triển, là một hòn đá bước
lên để đi vào sự hiểu biết sâu xa hơn. Đây là điều chắc chắn đối với Tôma, bởi
vì theo Tin mừng của thánh Gioan, ông đã tiến tới việc diễn tả lời tuyên xưng
cao cả nhất về lòng tin nơi Đức Giêsu :”Lạy
Chúa, lạy Thiên Chúa của con” (McCarthy).
Ở đây,
trên trái đất này, người ta không thể tuyệt đối biết chắc chắn về những điều
thiêng liêng. Nếu biết chắc chắn, thì không cần đến lòng tin nữa. Sự tuyệt đối
chắc chắn có thể đưa dẫn đến thói kiêu ngạo, không khoan dung và sự ngu xuẩn. “Kẻ tin nào không bao giờ tỏ ra hoài nghi,
thì không phải là kẻ tin nữa” (Thomas Merton).
Trên thực tế, Tin mừng còn cho thấy rằng
ngay cả các Tông đồ mà còn có vấn đề về lòng tin. Tôma không phải là người tông
đồ duy nhất nghi ngờ về sự sống lại. Tất cả các Tông đồ đều như vậy cả. Thánh Marcô
kể cho chúng ta nghe rằng khi Đức Giêsu hiện ra với họ vào buổi tối Phục sinh, “Ngài khiển trách các ông không tin và cứng
lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Ngài, sau khi Ngài chỗi
dậy” (Mc 16,14).
3. Một nhà truyền giáo vĩ đại.
Ôâng Tôma cũng như mọi người đều cần có
ơn Chúa để tin, nhưng ông đã nhận được một bằng chứng đặc biệt; niềm tin của ông
sẽ được phúc hơn nếu chấp nhận bằng chứng của các Tông đồ. Các chân lý mạc khải
thường được chuyển trao qua lời rao giảng, qua chứng từ của các vị được Đức Kitô
sai đi với quyền năng của Chúa Thánh Thần để rao giảng kho tàng đức tin :”Có đức tin là nhờ nghe giảng, mà nghe giảng
là nghe công bố lời Đức Kitô (Rm 10,17).
Tôma, sau khi chế ngự được khủng hoảng,
đã tiếp tục can đảm làm chứng cho Đức Kitô, và trở thành một trong những nhà
truyền giáo vĩ đại nhất của Giáo hội tiên khởi. Theo truyền thống, ngài đem Tin
mừng đến tận Ba tư, Syria và Aán độ, là nơi ngài chịu tử đạo. Tôma là người tông
đồ đầu tiên chịu chết vì đức tin.
III. PHÚC CHO AI KHÔNG
THẤY MÀ TIN.
1. Tin và không tin.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta cũng
như các tông đồ, mọi người nghe tin hoặc tai nghe mắt thấy mà có cái tin, có cái
không tin. Riêng việc Đức Giêsu sống lại, mặc dầu các Tông đồ đã nghe tin, đã thấy
mà cũng chưa tin (Mc 16,11; Lc 24,11). Ngay việc Ngài đích thân hiện đến mà họ
vẫn tưởng là ma. Ngài phải cho các ông rờ chân tay và cạnh sườn Ngài, các ông vẫn
chưa tin, Ngài mới hỏi:”Ở đây các con có
gì ăn không ? Các ông đưa cho Ngài một mẩu cá nướng, Ngài cầm lấy và ăn trước mặt các ông”(Lc 20,40-43), qua một số sự việc sờ sờ
ra trước mắt các ông mới tin.
Đức Giêsu cố gắng mở mắt cho các ông,
mà không đe dọa hoặc ép buộc ai cả. Ngài chỉ mời gọi, mong muốn họ tự nguyện
tin theo bằng tất cả sự sáng suốt của họ. Tại sao các ông cứng lòng đến nỗi Chúa
phải làm đủ cách, các ông mới tin ? Thưa
:
- Thứ nhất, vì cả loài người có ai chết
mà tự mình sống lại đâu ! Các ông đã biết : Dầu là tổ phụ như Abraham, Giacóp,
Giuse, vĩ đại như Maisen, Đavít, Salomôn và các tiên tri làm nhiều phép lạ như
Eâlia, Eâzêkiên vẫn phải chết.
- Thứ đến, gần ba năm các ông theo Thầy
hình như chỉ mong được địa vị danh vọng quyền bính, chỉ mong Thầy lên Giêrusalem
để cai trị Israel, nhưng Thầy lại chịu chết. Ngay cả khi Thầy sắp sống lại, sắp
về trời, các ông còn hỏi :”Phải chăng đã đến
lúc Thầy phải khôi phục vương quốc Israel”(Cv 1,6). Cho nên, dầu Thầy đã ba lần báo
trước :”Con người phải chịu nhiều đau khổ…bị
giết và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 20,17-18. Mc 10,33-34), các ông vẫn
mơ ước có ngày được vinh quang trần thế. Những tham vọng phàm tục đó đã che mắt
đức tin của các ông (Vũ khắc Nghiêm).
Trong đời sống hằng ngày có kẻ chỉ
nghe mà tin, có kẻ phải mắt thấy tai nghe mới tin như các thánh nữ, có người đòi
chứng nghiệm, thử nghiệm rồi mới tin, như
các nhà khoa học phải thí nghiệm đúng mới
công nhận. Phải chăng các môn đệ thuộc hạng các nhà khoa học ?
Ngoài ra, chúng ta thấy có những người
không tin gì cả khi họ “chưa thấy” và
“chưa hiểu” được cả về phương diện
thiêng liêng. Họ là những người kiêu căng,
họ cho là họ có thể hiểu được tất cả, cái gì họ không hiểu được là không có. Họ
nghĩ rằng mình có thể thấu hiểu mọi vấn đề, kể cả những điều thực sự vượt quá
trí hiểu của mình và cho tin như vậy là làm nhụt trí khôn đi. Họ đã quên rằng
không phải những điều xa lạ mà họ không hiểu, nhưng chính những điều trước mắt mà họ cũng không
hiểu nổi.
Truyện : hậu sinh khả úy.
Hồi Khổng Tử còn sống, chính ông đã được
nếm bài học này : Hôm ấy ông cỡi xe đi dạo, dọc đường ông gặp một em bé đang ngồi
nghịch, lấy đất xây thành. Khổng Tử làm hiệu cho em bé tránh lối, nhưng em trợn
mắt hỏi :
- Xe tránh thành hay thành tránh xe.
Nghe câu hỏi hóc búa, Khổng Tử vội vã
trụt xuống đấu dịu để vượt qua, nhưng em bé không nghe mà còn hỏi một câu khác
nếu thưa được sẽ cho đi. Câu ấy như sau :
Thiên thượng linh linh hữu kỷ tinh,
Địa hạ lục lục hữu kỷ ốc ?
(Trời
chi chít bao nhiêu ngôi sao,
Dưới đất san sát
có bao nóc nhà) ?
Khổng Tử bối rối. Ôâng hạ giọng :
- Con hỏi ông những sự trước mắt, ông
có thể thưa, nhưng với những sự trên trời dưới đất thì ông chịu.
Em bé hỏi luôn :
- Mục trung hữu kỷ mao ? (Trước mắt thầy có mấy cái lông) ?
Khổng Tử chịu và vội vã bước lên xe
quay trở lại, miệng lẩm bẩm câu :”Hậu
sinh khả úy” (rất đáng sợ người sinh sau đẻ muộn).
Cũng có những người biết rõ có Chúa –
có thưởng có phạt, nhưng họ không muốn tin tại vì tin có Chúa phải thờ Chúa – và
tin có thưởng có phạt thì phải lo làm lành lánh dữ, đang khi mình làm điều dữ.
Phải nói rằêng những người này chỉ tin có Chúa khi cần phải tin – tin để có lợi
cho họ.
Truyện : Người ta chỉ vô thần khi bình
an thôi.
Hôm ấy trên con tầu lênh đênh giữa biển,
hành khách truyện vãn với nhau, trong đó có bàn về Thiên Chúa. Trong số những
người có mặt, có một vị vô thần. Ôâng này tìm mọi lẽ bác bỏ Thiên Chúa. Lời ông
nói, lý ông đưa ra khá mạnh, khiến một số thính giả xiêu lòng. Câu truyện đương
đi thì thình lình có cơn bão lớn khiến con tầu muốn đắm
Người ta thấy mất ông vô thần. Họ bảo
nhau đi kiếm thì thấy ông đương quỳ cầu nguyện trong phòng rửa mặt.
Một người hỏi khích ông :
- Ôâng cầu nguyện với ai ? Ôâng là người
vô thần cơ mà ?
Ôâng khiêm nhường đáp :
- Người ta chỉ vô thần khi bình an thôi.
3. Tin trong gian lao thử thách.
Đức Maria đã bị thử thách : làm sao
sinh con mà vẫn còn đồng trinh ? Hoặc biết ăn nói làm sao với thánh Giuse về cái
bào thai trong bụng ? Và còn nhiều thử thách trong suốt cuộc đời ? Đức Maria chỉ
biết thực hành câu “Xin vâng”. Lời xin vâng
được thực hành với tất cả niềm tin và lòng yêu mến. Chính tình yêu hỗ trợ cho niềm tin. Thánh
Augustinô đã nói lên ý tưởng đó khi ngài nói :”Ama et fac quod vis” : hãy yêu đi rồi muốn làm gì thì làm.
Truyện : Tình yêu hỗ trợ.
Một cuộc đối thoại giữa hai người yêu
:
- Em có bằng lòng lấy anh không ?
- Bằng lòng.
- Chúng ta chỉ mới quen nhau mấy tháng.
Em chỉ nghe anh nói thế thôi chứ chưa có dịp “kiểm tra” lý lịch và quá khứ của
anh. Sao em tin anh thế ?
- Vì em yêu anh.
Tình yêu hỗ trợ cho niềm tin (Góp nhặt).
Đức Giêsu sống lại đã làm cho các môn đệ
tin tưởng, một niềm tin vững chắc ngay trong những gian nan thử thách, không gì
có thể làm cho họ nhụt chí. Blaise
Pascal, vị thiên tài toán học, được hấp dẫn đến với đức tin khi ông suy niệm
về sự kiện không có sự đe dọa giết chóc nào có thể ngăn cản các môn đệ Đức Giêsu
nói thật to cho thế giới biết rằng Ngài đã sống lại. Pascal nói rằng ông tin chắc
chắn vào kẻ nào dám sẵn sàng chịu “cắt cổ” vì lời rao giảng của chính mình.
Truyện : Trên bờ sông Kwai.
Những tù nhân trên bờ sông Kwai được lôi
cuốn đến với đức tin qua cảm nhận riêng tư về quyền năng Chúa Giêsu đang hoạt động
trong cuộc sống của họ. Chúng ta hãy nhớ lại đám tù binh này từng bị lao động đầu
trần chân đất dưới cơn nóng cháy da miền nhiệt đới. Trong chỉ vài tuần lễ, từ
những người đàn ông lực lưỡng, họ đã biến thành bộ xương biết đi. Tinh thần họ
xuống đến mức tệ nhất. Người ta lo sợ sắp có điều gì xẩy ra. Thế nhưng vào ngay
thời điểm ấy, hai tù nhân đã đứng lên tổ chức đám tù còn lại thành những nhóm
tìm hiểu Kinh thánh, các tù nhân đã học biết rằng Chúa Giêsu Phục sinh đang ở
giữa họ. Họ chỉ việc tiếp xúc với Ngài. Và sau khi tiếp xúc với Ngài, đám tù đã
được biến đổi một cách kỳ diệu trong cuộc sống từng người. Chính cảm nghiệm thiêng
liêng này khiến họ quỳ gối xuống thưa cùng Chúa Giêsu : “Lạy Chúa là Thiên Chúa
của con”(Mark Link).
4. Lời Chúa với chúng ta hôm nay
Sau khi Tôma đã thưa với Đức Giêsu :”Lạy Chúa, lạy Thiên Chúa của con”, thì
Ngài đã nói với ông :”Vì đã trông thấy Thầy,
nên con tin. Phúc thay người không thấy mà tin”. Nói điều ấy Chúa có ý nhằm
đến chúng ta hôm nay và muôn thế hệ nữa, là những người không được đặc ân nghe
tiếng Ngài, đụng chạm đến thân xác thánh thiện của Ngài. Chúng ta tin theo bằng
chứng của các tông đồ và lời giảng dạy của Hội thánh.
Phải chăng chúng ta mỗi người đều là Tôma
? Chúng ta cũng cứng lòng như Tôma trong những cơn gian nan thử thách ? Nhưng Tôma sau khi đã cảm nghiệm về Chúa Phục
sinh, ông đã tin, một niềm tin sâu xa và vững mạnh nhất : Đức Giêsu là Thiên Chúa. Chúng ta chỉ được vững mạnh về đức tin khi
chúng ta có cảm nghiệm về niềm tin đó. Chúng ta tin vào tình thương Chúa khi chúng
ta có cảm nghiệm bằng cách đón nhận tình thương của Chúa trong cuộc sống của
mình.
Đức Giêsu mời gọi chúng ta tiếp cận với
Ngài trong lòng tin, và vào những vết thương của Ngài. Mặc dầu chúng ta không được
đụng chạm vào Ngài về mặt thể lý, nhưng chúng ta có thể tiến lại gần Ngài về mặt
thiêng liêng. Và chúng ta cũng được kêu gọi mang lời chứng đến cho những người
khác. Công việc của chúng ta là làm cho Đức Giêsu trở thành “nhìn thấy được” trên thế giới. Các môn đệ
đầu tiên đã làm theo cách này. Một khi đã được nhìn thấy Đức Kitô, họ cảm thấy
bắt buộc phải làm cho người khác nhận biết Ngài.
Thế giới ngày nay đầy rẫy những kẻ hoài
nghi và không tin tưởng. Cách thức duy nhất khiến cho họ được biến đổi trong lòng
tin, đó là làm như thể họ “nhìn thấy”
Đức Giêsu và “đụng chạm “ vào Ngài thông
qua những kẻ đi theo Ngài. Nhưng những kẻ đi theo Ngài lại không hề có vết thương
tình yêu để bầy tỏ ra cho họ, vì thế, chưa chắc có thể thuyết phục được những kẻ
không tin (Flor McCarthy).
Chúng ta có thể kết luận : Việc Tôma
không tin lúc đầu là một bảo đảm cho lòng tin của chúng ta thêm vững chắc vì niềm
tin Chúa sống lại của chúng ta không chỉ dựa trên những lời nói suông, nhưng được
xây dựng trên đức tin của một người thực tế, bình dân, đã nhìn thấy tận mắt và
sờ tận tay vào thân xác sống lại của Chúa.
Do đó, cùng với thánh Grêgôriô chúng ta có thể nói :”Ngón tay đa nghi của Tôma đã
trở nên ông thầy của toàn thế giới ; bàn tay đa nghi của Tôma đã dạy cho mọi người
một sự thật rất chắc chắn, đó là thân xác Đức Giêsu Kitô đã phục sinh”.
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt