CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN C
THỂ HIỆN LÒNG BIẾT ƠN
+++
A. DẪN NHẬP.
Người
ta hay nói :”Hữu sự vái tứ phương, vô sự đồng hương không mất”.
Câu nói ấy có ý chỉ trích thói vô ơn của nhiều người. Theo thói thường, người
ta chỉ muốn nhận chứ không muốn cho đi. Nếu nhận được một ân huệ nào của ngưới
khác thì dễ quên đối với vị ân nhân, còn khi mình làm ơn cho ai thì nhớ rất dai
và muốn người ta phải thể hiện lòng biết ơn đó. Bài Tin mừng hôm nay cho biết
Đức Giêsu đã chữa lành cho mười người phong cùi mà chỉ có một người dân ngoại
Samaria trở lại ca tụng hồng ân Thiên Chúa, còn chín người Do thái kia bỏ đi
luôn không nghĩ gì đến hồng ân đã lãnh nhận. Những người này không tỏ lòng biết
ơn vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa thi ân. Họ là những người
vô ơn.
Người
đời thường nói :”Uống nước nhớ nguồn” hay “An quả nhớ kẻ
trồng cây”. Biết ơn là một chuyện xem ra rất bình thường nhưng cũng là
một bổn phận mà ít người làm trọn. Ngày nay người ta ít dùng hai tiếng “cám
ơn”, người ta rất hà tiện trong việc dùng hai tiếng đó. Ngạn ngữ Pháp
có câu :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”, vì con tim cảm
nghiệm được điều tốt người khác làm cho mình, nên người biết ơn người khác phải
là người đạo đức, có văn hóa, có giáo dục. Vì vậy, chúng ta có thể nói : biết
ơn là một việc khó, và thể hiện lòng biết ơn bằng những việc làm cụ thể lại
càng khó hơn.
Cuộc
đời của chúng ta được đan dệt bằng những hồng ân của Thiên Chúa. Thánh Phaolô
nói:”Tất cả là hồng ân”. Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu cũng nói như thế.
Đối với người chịu ơn thì phải tỏ lòng biết ơn đối với người làm ơn. Đối với
Thiên Chúa, lời cảm tạ của chúng ta không cần thiết vì nó chẳng thêm gì cho
Chúa, nhưng nó lại cần thiết cho chúng ta vì đem lại lợi ích cho chúng ta.
Chúng ta phải có tâm tình tạ ơn Chúa như ông Naaman đối với tiên tri Elisê và
người phong cùi
B. TÌM HIỂU LỜI
CHÚA.
+ Bài đọc 1 : 2V 5,14-17.
Ông
Naaman là tổng tư lệnh quân đội
Tiên
tri Elisê bảo ông hãy xuống sống Giorđan tắm 7 lần thì khỏi. Ông thấy đây là
phương pháp quá tầm thường và nước sông ở đây cũng không hơn gì nuớc sông ở xứ
sở mình. Lúc đầu ông không chịu, nhưng do một người hầu gái thuyết phục, ông đã
đi tắm 7 lần và sau đó ông được khỏi bệnh cùi.
Sau
khi khỏi bệnh, ông Naaman muốn tạ ơn tiên tri Elisê nhưng ông nhất định từ
chối, vì ông muốn quan chỉ cám tạ ơn Thiên Chúa mà thôi.
+ Bài đọc 2 : 2Tm 2,8-13.
Lúc
đó, thánh Phaolô đang bị giam cầm tại Rôma lần thứ hai. Ngài viết cho Timôthêô những lời di huấn :
hãy chịu đau khổ và chết với Đức Kitô để được cùng sống lại và hiển trị với
Ngài. Còn riêng với thánh Phaolô, mặc
dầu đang chịu khổ sở vì bị giam trong tù, nhưng vẫn ca tụng Thiên Chúa và quyết
tâm trung kiên với Ngài.
+ Bài Tin mừng : Lc 17,11-19.
Chúng
ta có thể chia bài Tin mừng thành ba đoạn nhỏ :
a)
Nhận biết phận mình : Mười người phong cùi đến với Đức Giêsu xin Ngài cứu
chữa. Nhận biết phận mình là những người bị xã hội loại bỏ nên không dám đến
gần Đức Giêsu mà chỉ “đứng đàng xa” mà kêu xin.
b.
Đức Giêsu thử thách họ : Ngài không chữa cho họ ngay mà chỉ bảo họ :”Hãy đi
trình diện với các tư tế”. Nếu có đức tin thì họ sẽ đi ngay và sẽ được khỏi.
Trường hợp này họ có đức tin vì đang đi trên đường thì họ được khỏi.
c)
Kết quả : Mười người đều được khỏi bệnh : 9 người cùi Do thái không trở lại
tạ ơn vì họ đã quen được ơn Chúa nên coi đó là việc bình thường. Còn người cùi
xứ
C. THỰC HÀNH LỜI
CHÚA.
Tâm
tình biết ơn.
I. CHỮA LÀNH MƯỜI NGƯỜI PHONG CÙI.
1.
Hoàn cảnh :
Trên đường tiến về Giêrusalem, nơi Đức Giêsu
thực hiện công trình cứu độ bằng việc chịu thương khó, chịu chết và sống lại.
Thánh Luca thuật lại cho chúng ta một biến cố xẩy ra trong cuộc hành trình lên
Giêrusalem, đồng thời cũng là một phép lạ : Chúa chữa lành mười người phong cùi
ở biên giới
2.
Mười người phong cùi xin cứu giúp.
Bệnh
phong cùi vẫn được giới y học cho là phát sinh từ Ai cập truyền qua
Phong
cùi là một bệnh khó trị, ai cũng ghê tởm và run sợ nếu mắc phải bệnh này. Vào
thời Đức Giêsu, nó còn khoác vào người bệnh nỗi nhục nhã trong tâm hồn vì người
ta cho rằng họ là những người bị Thiên Chúa phạt. Những người mắc bệnh cùi bị
ruồng bỏ. Luật của Maisen thật là hà khắc nhằm tránh dịch bệnh lan truyền :
người mắc bệnh phong cùi phải mặc áo
rách, xõa tóc, che râu và kêu lên :”Ô uế ! Ô uế !”. Không cần phải nói thêm
rằng họ đương nhiên bị cấm đến ở những
nơi dân cư và hoàn toàn bị đuổi ra khỏi những nơi thờ phượng.
Mười
người phong cùi này sống chung với nhau lẫn lộn cả
Theo
luật Maisen, họ không được đến gần, phải đứng đàng xa mà kêu xin :”Lạy Thầy
Giêsu, xin thương xót chúng tôi”. Đức Giêsu không chữa lành họ tức khắc mà
chỉ bảo họ hãy đi trình diện với các tư
tế. Những người phong cùi phải đến trình diện thầy tư tế, không phải để được
khỏi bệnh nhưng để xác nhận là đã khỏi bệnh. Ở đây ra lệnh cho người bệnh đi
trình diện khi chưa khỏi bệnh là để thử luyện lòng tin của họ, vì theo luật khi
khỏi bệnh mới đi trình diện các thầy tư tế.
3.
Đức Giêsu đã chữa lành họ.
Để
được khỏi bệnh, Đức Giêsu đòi hỏi phải có lòng tin. Những người cùi này đã tỏ
bầy lòng tin vào Đức Giêsu khi họ tuyên xưng Đức Giêsu là Thầy và xin
Ngài thương xót, đồng thời họ cũng đã tỏ lòng tin ấy bằng hành động : vâng lời Chúa đi trình diện
ngay với các vị tư tế mà không chờ một hành động gì khác để chữa bệnh. Việc này
cũng làm cho chúng ta nghĩ đến thử thách
lòng tin mà tiên tri Elisê bắt ông Naaman, người gốc Syria phải chịu khi yêu cầu ông này phải tự mình
thực hiện một biện pháp… điều này làm ông ta nổi giận. Vì thế, hiệu quả của
lòng tin ấy làm họ thấy mình được khỏi bệnh trên đường đi trình diện theo Luật.
4.
Lời tạ ơn sau khi được lành.
Trong
khi đi trình diện, cả mười người đều được lành sạch. Chúng ta nhận thấy trong
khi 9 người tiếp tục đi “trình diện với các tư tế”, thì riêng có một
người, thay vì vâng lệnh Chúa và Luật dạy, “liền quay trở lại và lớn tiếng
tôn vinh Thiên Chúa”. Thật ngạc nhiên, chỉ đến lúc này, lúc mà cách xử sự
của anh đã gây ấn tượng tốt nơi chúng ta, thì chúng ta mới biết anh thuộc dòng
tộc nào : anh là người
Cử
chỉ anh làm là một cử chỉ trong phụng vụ,”anh ta sấp mình dưới chân Đức
Giêsu mà tạ ơn”. Anh nghĩ chắc hẳn đó là cách tuyên xưng công khai Đức
Giêsu là người gần gũi với Thiên Chúa. Roland
Meynet chú giải :”Người
“Chớ
thì không phải cả mười người được lành sao” ? Đức Giêsu đợi tất cả mọi
người đến tôn vinh Thiên chúa qua trung gian của Ngài. Những người Do thái
không tỏ lòng biết ơn, vì nghĩ mình là người Do thái nên có quyền đòi hỏi Chúa
thi ân. Ở đây Chúa có ý ám chỉ đến người Do thái, đến riêng các biệt phái, luật
sĩ là những người ỷ lại vào danh nghĩa (con cái Israel) dân riêng của Chúa, mà
tự phụ kiêu căng, khép kín không tin nhận vào quyền năng của Thiên Chúa nơi Đức
Giêsu Kitô. Đang khi ấy chỉ có người dân ngoại là người
II. HAI TIẾNG “CÁM ƠN” TRONG ĐỜI THƯỜNG.
1.
Biết ơn, một chuyện bình thường.
Trên
bình diện con người thì biết ơn rất ư là chuyện bình thường. Khi chịu ơn ai thì
tỏ lòng biết ơn qua một hình thức nào đó hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp vì người
ta thường nói :
Uống
nước nhớ nguồn
Hoặc
An
quả nhớ kẻ trồng cây,
An cơm nhớ kẻ đâm, say , giã, sàng.
Thế
nên lòng biết ơn thường là “có đi có lại”. Dĩ nhiên cũng có người chỉ muốn cho
đi mà không muốn nhận lại, dù chỉ là lời cám ơn. Nhưng quả là hiếm !
Ngày
nay, hai tiếng “cám ơn” hình như càng ngày càng thiếu vắng trong cuộc
sống hiện nay. Chúng ta ngày hôm nay, ngần ngại khi phải nói tiếng “cám ơn”.
Nếu để ý, chúng ta sẽ thấy hai tiếng “cám ơn” hình như bớt dần đi với
tuổi tác. Càng lớn tuổi, người ta càng khó nói tiếng “cám ơn”. Nhưng nếu
chỉ hai tiếng “cám ơn” mà chúng ta không nói được, thì cho thấy tình
trạng luân lý của xã hội đang tuột dốc một cách nguy hiểm.
2.
Biết ơn, là trí nhớ của trái tim.
Người
Pháp có câu ngạn ngữ :”Lòng biết ơn là trí nhớ của trái tim”. Vì con tim
cảm nghiệm được điều tốt người khác đã làm cho mình, nên người biết ơn người
khác phải là người đạo đức, có văn hóa, và có giáo dục. Thi sĩ người Anh, Samuel
Johnson, đã nói rằng :”Lòng biết ơn là một hoa trái của công trình rèn
luyện cao quí, bạn không tìm thấy nó ở những kẻ thô lỗ”.
Còn
Chu Văn, tác giả Chuyện Tử Tế thì chia sẻ với chúng ta :”Một
tiếng nói cám ơn với tất cả thành thật, một cử chỉ biết ơn đối với những ai đã làm ơn cho chúng ta cách
này hay cách khác, một thái độ như thế không những làm cho chúng ta được nên
người hơn, mà là thể hiện của một niềm tin sâu sắc nữa. Có lẽ không gì tử tế
bằng khi hai tiếng cám ơn luôn được thốt lên với tất cả chân thành và
trân trọng”.
Công
ai một chút chớ quên,
Phiền ai một chút để bên cạnh lòng.
Truyện :
Anh lính biết ơn.
Kurt
Emmerich, một bác sĩ giải phẫu trong quân đội của Đức, đã kể câu chuyện sau đây
về một kinh nghiệm ông đã trải qua ở biên giới Nga sô. Hàng ngàn thương binh đã
được ông giải phẫu tại bệnh viện dã chiến, nhưng chỉ có một trường hợp làm ông
không bao giờ quên. Người lính trẻ đó được đưa vào bệnh viện với một khuôn mặt
bị vỡ tan nát. Bác sĩ phải làm việc rất nhiều ngày để sửa lại khuôn mặt của anh
với tất cả nỗ lực có thể được qua hàng loạt những phẫu thuật cấy và ghép da.
Trong
lần giải phẫu cuối cùng, bác sĩ đã phải khâu nối kết toàn thể các phần còn lại với nhau ở khóe
miệng của bệnh nhân. Những y tá phụ đã giúp cho anh thương binh ngồi lên. Vì
thuốc tê chung quanh miệng bệnh nhân vẫn còn hiệu quả, nên bác sĩ nói với anh,
“Bây giờ công việc đã hoàn tất, chúng tôi muốn nghe anh phát biểu một điều gì
với môi miệng mới của anh”.
Anh
thương binh trẻ từ từ cử động những bắp thịt quanh miệng một cách rất cẩn thận,
và rồi với nụ cười mỉm chi đầu tiên của anh, miệng anh uốn theo những chữ :”Cám
ơn”(Nguyễn văn Thái, Sống Lời Chúa… năm C, tr 343).
3.
Biết ơn là một việc khó.
Đừng
tưởng việc biết ơn, nhớ ơn, biết nói lời cám ơn là một chuyện dễ dàng, không
mấy khó khăn. Nếu nghĩ như thế là lầm vừa chưa biết cám ơn bao giờ vì qua cách
sống của mỗi người và qua thực tế như bài Tin mừng hôm nay trình bầy cho chúng
ta thấy rằng : nhận ơn thì ai cũng muốn, còn nhớ ơn lại rất ít người làm hoặc
cho ai cái gì người ta nhớ rất dai, còn khi nhận được cái gì thì lại quên mau
chóng. Như thế, chỉ những ai có tâm hồn đạo đức, một lòng trí trong sáng mới có
thể biết ơn ân nhân của mình cách đúng đắn.
Nếu
biết năng dùng hai tiếng “cám ơn” thì nó cũng sẽ giúp người ta rất nhiều
:
-
Khi ta cám ơn ai, người đó sẽ hài lòng, và lần sau họ sẽ sằn sàng giúp ta nữa.
-
Nghe ta nói cám ơn, lòng người ta vui, mặt người ta sáng, người ta sẽ làm việc
vui vẻ hơn.
Hai
tiếng “cám ơn” khi được thốt ra bởi những người lớn hơn thì càng sinh hiệu quả
nhiều hơn. Chẳng hạn cha mẹ cám ơn con cái, thầy cô cám ơn các em học trò, chủ
cám ơn tớ…
Nhưng
tại sao người ta cám ơn “người dưng” hơn là cám ơn người nhà”(Frank Mihalic).
4.
Làm ơn đừng nhớ, chịu ơn đừng quên.
Bài
đọc 1 đưa ra cho chúng ta một hình ảnh rất đẹp : Tướng của
Cả
hai thái độ tốt đẹp trên có thể làm chúng ta suy nghĩ và xét lại thái độ của
chúng ta khi chịu ơn ai hoặc làm ơn cho ai. Thông thường người ta có tâm lý hay
quên hoặc không nhận ra những điều tốt
người khác làm cho mình, nhưng lại dễ nhớ những gì tốt đẹp mình làm được cho
người khác. Không những thế, mình còn mong họ nhớ ơn và trả ơn mình. Nếu họ vô
tình quên ơn, thì ta buồn phiền, oán trách, thậm chí sẵn sàng lên tiếng chê bai
:
Những
người phụ nghĩa quên công,
Thì đeo trăm cánh hoa hồng chẳng thơm.
Truyện :
Không ai cám ơn tôi cả.
Cách
đây đã lâu, một con tầu bị đắm vì giông bão trong vùng Ngũ Đại Hồ, Hoa kỳ.
Những toán cấp cứu được phái đến giúp đỡ, trong đó có một nhóm sinh viên của
trường
Nhiều
năm sau đó, trong buổi họp mặt của các cựu sinh viên, một thuyết trình viên đã
nhắc lại hành động anh hùng này. Bỗng nhiên có một người la lớn rằng Edward
Spencer đang hiện diện ở đây. Thế là Spencer được mời lên bàn cử tọa. Bây giờ
ông đã già, tóc bạc, buớc lên bục đài giữa tiếng hoan hô vỗ tay của khán giả.
Thuyết trình viên hỏi ông :”Trong biến cố đó, sự kiện nào đáng ông ghi nhớ
nhất” ? Ông cụ bèn trả lời:”Chỉ có một điều này làm tôi nhớ mãi, khoảng 16 hay
17 người đã được tôi cứu vớt, không một người nào đã cám ơn tôi cả”.
5.
Biết ơn là thái độ sống căn bản.
Thái
độ biết ơn Thiên Chúa là một thái độ căn bản của các tạo vật và chỉ con người
mới ý thức và nói lên được hai tiếng cám ơn. Trong Cựu ước, dân
Thánh
Bênađo đã nói:”Anh em, tôi xin anh em điều này là hãy xa tránh một
nết xấu lớn lao là sự vô ơn. Chớ gì đời ta là một đời sống, một lời cám ơn liên
lỉ. Chúng ta đừng cảm ơn suông bằng môi bằng miệng, nhưng bằng các việc làm và
bằng chân lý của đời ta : đừng nói cám ơn, nhưng hãy thực hành việc cám ơn. Đó
là điều mà Chúa mọi ơn lành đòi hỏi chúng ta”.
III. THỂ HIỆN TÂM TÌNH BIẾT ƠN.
1.
Tất cả đều là hồng ân.
Cuộc
sống là một chuỗi những ân huệ nối tiếp nhau. Những ân huệ này đan xen với
những ân huệ khác. Có những ơn do nơi Thiên Chúa, và cũng có những ơn đến từ
con người. Vậy nếu cuộc sống là lãnh nhận thì người ta sẽ như thế nào nếu không
hề biết nói hai tiếng “cám ơn”, hoặc chẳng bao giơ bầy tỏ tấm lòng tri ân.
Chúa
cho con đôi mắt, con nhìn bao kỳ công,
Chúa
cho con đôi tai, con nghe đủ âm thanh,
Chúa
cho con đôi môi, con hé mở nụ cười,
Chúa
cho con hai tay, bưng chén cơm, cầm bút,
Chúa
cho con đôi chân, dẫn con khắp nẻo đường,
Chúa
cho con khối óc, phân biệt điều thực hư,
Những
điều con có đó, tưởng tầm thường nhưng thật vĩ đại, thật cao cả.
Mà
đã lần nào con nhớ đến những thứ ấy để
cám ơn Chúa.
Chắc
đợi đến khi mắt mù, tai điếc, chân què, con mới nhận ra những thứ ấy thật cao
quí.
Lạy
Chúa, Chúa đã ban cho chúng con nhiều điều. Nhưng xin ban cho chúng con một
điều nữa là cho chúng con biết luôn nhận ra những ân huệ Chúa mà không ngừng
cảm tạ tri ân.
Amen .
(Hosanna).
Truyện :
Hồng ân Chúa quá nhiều.
Có
một người cha trong gia đình đã ghi lại câu chuyện và những ý nghĩ sau đây :
Một đêm kia, trong lúc đang đọc báo, tôi nghe đứa con gái bé nhỏ của tôi nói
:”Bố ơi, con sẽ đếm sao trên trời có bao nhiêu ngôi sao nhé”. Sau đó, tôi nghe
giọng nói êm đềm của con tôi bắt đầu đếm 1,2,3,4… Rồi tôi chăm chú vào việc đọc
báo, không để ý đến tiếng con tôi đếm các ngôi sao nữa. Đến khi đọc xong bài
báo, tôi chú ý lắng tai và nghe tiếng nó
vẫn tiếp tục đếm 123,124,125… Đến đây nó bỗng ngừng lại, không đếm nữa, rồi
quay sang nói với tôi :”Bố ơi, con không dè trên trời lại có nhiều sao đến thế”. Nghe con gái nhận
xét như vậy, tôi chợt nhớ là thỉnh
thoảng tôi cũng âm thầm nói với Chúa :”Chúa ơi, để con thử đếm xem con đã nhận
lãnh bao nhiêu ơn lành Chúa đã ban”, và càng đếm, trái tim tôi hình như càng
cảm thấy thổn thức, không phải vì âu sầu mà vì bị quá nhiều hồng ân Chúa đè
nặng. Rồi tôi cũng thường phải thốt lên như con gái tôi :”Lạy Chúa, con không
dè đời con lại có quá nhiều hồng ân của
Chúa đến thế”(Phạm văn Phượng).
2. Có nhiều
cách tỏ lòng biết ơn.
Tâm tình biết ơn thường
được gói ghém trong hai tiếng “Cám ơn”. Cám ơn không những là một
bổn phận mà còn là một nhân đức bởi vì người ta rất hà tiện trong việc cám ơn.
Người ta có muôn vàn cách để cám ơn. Có rất nhiều chuyện mà người ta không thể
cám ơn bằng tiền bạc được, người ta có thể cám ơn bằng nụ cười, một thoáng quan
tâm, một tiếng cám ơn. Những ngưởi bán hoa đã viết một biểu ngữ trước quầy hàng
của họ thế này:”Hãy diễn tả tâm tình của bạn bằng những bông hoa”. Cũng vậy,
chúng ta phải diễn tả tâm tình của mình
ra nhờ những cái gì khác hơn là tiền bạc, hoặc cả tiền trà nước, đó là lời cám
ơn. Có cả một nghệ thuật bầy tỏ lòng tri ân mà chúng ta phải tập để biết sử
dụng hợp thời, đúng lúc và tinh tế khéo léo.
3. Hãy tạ ơn Chúa về
mọi sự trong cuộc đời.
Về việc thể hiện lòng
biết ơn đối với Thiên Chúa. Thiên Chúa không cần những lời cám ơn của chúng ta,
nhưng chúng ta cần cám ơn Thiên Chúa. Điều ấy nhắc chúng ta rằng mọi việc mà
chúng ta có đều do Thiên Chúa ban cho. Cám ơn Thiên Chúa về điều xẩy đến cho
chúng ta là việc dễ dàng. Nhưng chúng ta cố gắng biết ơn về trọn cả cuộc đời
mình : điều xấu cũng như điều tốt, những niềm vui và nỗi buồn, những thành công
và thất bại. Đó không phải là một việc dễ dàng. Chúng ta chỉ thực sự gọi mình
là những người có lòng biết ơn khi chúng ta có thể nói lời cám ơn về mọi việc
đã đưa chúng ta đến giây phút này. Loại tri ân này làm chúng ta có khả năng cải
tạo toàn bộ quá khứ của chúng ta và coi
nó như là con đường cụ thể trong đó Thiên Chúa dẫn dắt chúng ta đến giây phút
này.
4. Cám ơn Chúa trong
Thánh Lễ.
Ngay từ ban đầu khi
thành lập Giáo hội, các tín hữu đã qui tụ nhau lại hằng tuần để cử hành tiệc “Thánh
Thể” (Cv 2,42). Chữ Eucharistia – “Thánh Thể” dịch
từ tiếng Hy lạp “Eucharistos”, có nghĩa là “Biết ơn – Tạ ơn”. Vì thế ngay từ hồi Giáo hội sơ khai, người
Kitô giáo đã ý thức về nhu cầu tạ ơn Thiên Chúa, và họ nhận thức rằng một cách
tốt nhất để tạ ơn là việc dâng lễ. Khi
mọi người tín hũu thời Giáo hội sơ khai đi dâng lễ, cái ý nghĩ và tâm tình của
họ dựa trên cái ý niệm tạ ơn. Thánh lễ, theo tiếng Hy lạp, có nghĩa là
tạ ơn. Vậy đi lễ là đi tạ ơn Thiên Chúa.
Trong Thánh lễ, ta dâng
lời cảm tạ Thiên Chúa bằng lời tạ ơn và tâm tình biết ơn. Bằng một biểu hiệu tạ
ơn và biết ơn, ta dâng lên Thiên Chúa bánh rượu là do kết quả của sức lao công
hằng ngày, được trở thành Mình và Máu thánh Chúa do lời truyền phép của Linh
mục tế lễ. Do đó lễ vật tạ ơn của ta được hiệp nhất với Mình Máu Thánh Chúa
Kitô dâng lên Thiên Chúa làm của lễ đền tội, ca tụng và cảm tạ.
Để kết thúc, chúng ta có
thể nói rằng Chúa không cần chúng ta phải cảm ơn nhưng lại cần cho chúng
ta, bởi vì việc đó có lợi cho chúng ta
như kinh Tiền tụng Thánh Thể IV đã nói:”Lạy Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn
năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Cha mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải
đạo và sinh ơn cứu độ cho chúng con nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Thật ra, Cha
không cần chúng con ca tụng, nhưng được ca tụng Cha lại là một hồng ân cao cả,
vì những lời ca tụng của chúng con chẳng thêm gì cho Cha, nhưng đem lại cho
chúng con ơn cứu độ muôn đời, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con”.
Truyện : Cám ơn.
Thi
sĩ Lamartine, người Pháp có kể lại một giai thoại như sau : một hôm ông
tình cờ đi qua một khu rừng, ông nghe có một âm thanh kỳ lạ : cứ sau một tiếng
búa đập vào đá lại vang lên một tiếng cám ơn ! Đến gần nơi phát ra âm thanh,
thi sĩ mới nhìn thấy một người thợ đá đang miệt mài làm việc. Cứ mỗi lần gõ búa
vào phiến đá, ông lại thốt ra hai tiếng “cám ơn”.
Thi
sĩ nấn ná đến hỏi chuyện, ngưởi thợ đá mới giải thích :”Tôi tạ ơn Chúa” ! Ngạc
nhiên về lòng tin của một người mà cuộc sống hẳn phải lam lũ, lầm than hơn
nhiều người, thi sĩ bảo :
-
Giả như bác được giầu có thì tôi hiểu tại sao bác không ngừng thốt lên hai
tiếng “cám ơn”. Đàng này Thiên Chúa chỉ nghĩ đến bác có mỗi một lần duy nhất,
đó là lúc Ngài tạo nên bác. Sau đó Ngài ban cho bác có mỗi cái búa này để rồi
không ngó ngàng gì tới bác nữa, thế thì tại sao
bác lại mỏi miệng cám ơn Ngài ?
-
Ông nghĩ rằng Chúa chỉ nghĩ đến tôi có một lần thôi sao ?
-
Dĩ nhiên – Lamartine thách thức – Chúa chỉ nghĩ đến bác có một lần thôi !
Người
thợ đá nghèo, nhưng đầy lòng tin, náo nức thốt lên :
-
Tôi nghĩ điều đó không có gì đáng ngạc nhiên cả. Ông hãy nghĩ rằng Thiên Chúa
đã đoái thương nghĩ đến một người thợ đá thấp hèn như tôi, và chỉ một lần thôi,
vậy không đủ cho tôi cám ơn Ngài sao ? Vậy, cám ơn Chúa, cám ơn Chúa !
Nói
xong, người thợ đá đã bỏ mặc cho ông thi sĩ đứng đó và tiếp tục điệp khúc quen
thuộc của ông : vừa đập đá vừa cám ơn Chúa.
“Chúc
tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi,
Chớ
khá quên mọi ân huệ của Người” (Tv 103,2)
Lm Giuse Đinh lập Liễm
Giáo xứ Kim phát
Đà lạt