LẠY CHA, NẾU CÓ THỂ ĐƯỢC

_______________________________________________________

Lễ Suy tôn Thánh giá Chúa
2009

 

I. ĐỨC KITÔ, NGƯỜI TÔI TỚ VÂNG PHỤC

 

          Đức Kitô được gọi là Tôi Tớ của Thiên Chúa vì Ngài đã mặc lấy thân xác của loài người trong thân phận người nô lệ để sống với loài người,  hầu thi hành sứ mạng cứu thế mà Chúa Cha đã giao phó cho.  Cuộc đời của Ngài là cuộc đời vâng phục hoàn toàn, như lời thánh Tông Đồ đã nói :”Chúa Kitô đã sinh ra vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá”(Pl 2,8).

 

          1. Đức Kitô, người Tôi Tớ

 

          Đức Giêsu lấy thân phận người tôi tớ làm thân phận của mình; là Thầy hiền lành và khiêm nhường trong lòng (Mt 11,29), loan báo ơn cứu độ cho người nghèo (x. Lc 4,18t); tuy là Chúa và là Thầy (Ga 13,12-15), Người sống giữa các môn đệ như “kẻ phục vụ” (Lc 22,27);  và Người đi đến tận cùng các đòi hỏi của tình yêu thúc đẩy Ngài phục vụ như thế (Ga 13,1; 15,13) bằng cách hiến dâng cả mạng sống mình để cứu chuộc nhiều tội nhân (Mc 10,43tt; Mt 20,26tt).  Bởi đó Người đã bị đối xử như một tội phạm (Lc 22,37), rồi chết trên thập giá (Mc 14,24) trong khi biết rằng mình sẽ sống lại theo lời Thánh Kinh nói về Con Ngưới (Mc 8,31; Lc 24,44).

 

          Lời rao giảng của các sứ đồ áp dụng cho Đức Giêsu tước hiệu Người Tôi Tớ để loan báo mầu nhiệm sự chết của Người (cvtđ 3,13t; 4,27t), là nguồn mạch phúc lành và ánh sáng cho chư dân (cvtđ 3,25t; 26,23).  Là Con Chiên bị sát tế  cách bất công như người Tôi Tớ (cvtđ 8,32t), Đức Giêsu đã cứu chuộc các chiên lạc của Người.

 

          Trong một bài thánh ca, thánh Phaolô đã hùng hồn tóm tắt mầu nhiệm Đức Kitô và đức ái của Người : thánh ca công bố rằng  Đức Giêsu đã vào trong vinh quang bằng cách mặc lấy thân phận Người Tôi Tớ và chết trên thập giá để vâng lời Thiên Chúa Cha Người (Ph 2,5-11). Vậy lời tiên tri nói về Người Tôi Tớ loan báo lễ hy tế cứu chuộc của Con Thiên Chúa làm người. Bởi đó, tên của Người Tôi Tớ thánh thiện của Thiên Chúa, Đức Giêsu chịu đóng đinh và sống lại, là nguồn  mạch độc nhất của ơn cứu rỗi (cvtd( 4,10tt ).

 

          2. Đức Kitô, người Tôi Tớ vâng phục tự nguyện.

 

          a) Giáo lý của Người.

 

          Việc đầu tiên chứng tỏ Đức Giêsu đã tự nguyện vâng phục, đó là Người đã tự nguyện mặc lấy thân phận tôi tớ, mặc dầu Người vốn có hình thể Thiên Chúa (Ph 2,5-11). Người đã tự hủy mình đi để thi hành công cuộc cứu chuộc loài người.  Trong đời sống thi hành chức vụ đó, Đức Kitô luôn nhắc đi nhắc lại cho chúng ta thấy Người đến  không phải làm một việc gì khác ngoài việc đến để làm công việc  do Cha Người đã ủy thác cho (x. Ga 4,38).

 

          Thánh Phaolô cho biết Cựu ước chỉ là hình bóng của Tân ước, cho nên của lễ Cựu ươc cũng thua kém của lễ Tân ước. Ngày nay,  Chúa không thích lễ vật sinh tế mà thích tấm lòng của người dâng lễ vật. Trong thư gửi cho tín hữu Do thái thánh Phaolô viết :”Bởi đó lúc vào trần gian Ngài nói :”Hy sinh cùng lễ vật Người đã chẳng màng, nhưng Người đã nắn nên thân xác cho con. Các lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đoái. Bấy giờ con nói : Này con đến – trong cuốn sách đã nói về con – để thi hành ý muốn Người, lạy Thiên Chúa (Dt 10,5-7).

 

          Lần kia, các tông đồ vào thành mua đồ ăn về, thấy Chúa Giêsu đang ngồi nghỉ mệt bên giếng Giacóp. Các ông bầy đồ ăn ra trước mặt Chúa, các ông mời Ngài :”Thưa Thầy, xin Thầy dùng bữa” (Ga 4,31).  Chúa Giêsu không để ý gì đến thức ăn các môn đệ dọn sẵn.  Đôi mắt Ngài còn chìm đắm trong cõi vô hình. Cảnh vật chung quanh như xa lạ với Ngài.  Cuối cùng Ngài trả lời các môn đệ :”Thầy đã có của ăn rồi mà các con không biết”(Ga 4,32).  Rồi khi thấy các môn đệ đưa mắt hỏi nhau về việc Ngài đã có của ăn, Ngài liền thêm :”Của ăn Thầy dùng  là chu toàn ý Chúa Cha và thực hiện công việc của Ngài”(Ga 4,34).  Nhiều lần trong đời Ngài, Ngài đã lặp lại  và minh chứng hùng hồn điều đó :”Ta từ trời xuống không phải để làm theo ý Ta, nhưng theo ý Đấng đã sai Ta”(Ga 4,38).

 

          Ý tưởng về vâng phục đó còn được diễn tả  một cách rõ ràng trong một hoàn cảnh hết sức  đặc biệt. Khi Đức Giêsu bắt đầu cuộc thụ nạn, Ngài đã vào trong Vườn Cây Dầu để cầu nguyện,  hầu xin sức mạnh để thực hiện một công việc hết sức khó khăn theo sức loài người.  Đức Giêsu có những ý nghĩ và tâm tình như chúng ta : Người cũng cảm thấy buồn rầu lo sợ trước một cái chết cực kỳ dã man và ghê sợ nhất trong lịch sử loài người.  Nhưng với ý chí sắt đá, Ngài đã thắng được tính yếu đuối nhúùt nhát của con người, Ngài đã dám cầu nguyện cùng Cha Ngài rằng :”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho chén này qua đi khỏi con ! Song không phải ý Con, mà là ý Cha”(Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42; Ga 12,27).

 

          b) Đời sống của Ngài.

 

          Đức Giêsu đã tỏ ra lệ thuộc vào Cha trên trời một cách cụ thể trong khi vâng phục các tạo vật, theo phẩm trật tự nhiên, có thể quyền bính phần nào đối với Người. Thế nên, trong 30 năm Ngài sống hoàn toàn vâng phục Mẹ Maria và thánh Giuse, Người nhìn nhận uy quyền của Đức Chúa Cha,  quyền bính của thánh Giuse và Mẹ Maria.  Trong những lời ngắn ngủi, Phúc âm tóm tắt cả một quãng đời riêng tư lâu dài của Đấng Cứu Thế : “Người đã vâng phục ông bà”(Lc 2,51). Sau đó trong đời sống công khai, nhất là trong cuộc khổ nạn, Người đã luôn nêu gương vâng phục quyền bính thiết định, tôn giáo cũng như dân sự, tuân phục những thẩm phán cũng như những đao phủ, theo lời thánh Phaolô :”Người đã vâng phục cho đến chết, và chết trên thập giá”(pl 2,8). Xuống thế vì vâng lời, Người đã ôm ấp cái chết, tại vườn Cây dầu Ngài đã thực hiện lý tưởng ấy (x. Lc 22,42).

         

          c) Vâng phục tự nguyện.

 

          Công cuộc nhập thể và cứu chuộc được thực hiện nơi Chúa Giêsu hoàn toàn do Người chấp nhận, không có một lý do nào khác ép buộc Ngài.  Mọi công việc Người làm ở trần thế này không có một lý do nào khác ép buộc Người, chỉ có tình yêu Người đối với ta đã thúc đẩy.

 

          Trong một bài thánh ca,thánh Phêrô đã mô tả như sau :”Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người.  Người không phạm tội chi, chẳng ai thấy Người mở miệng nói lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ nà chẳng có ngăm đe, nhưng đã tự phó thác cho Đấng phân xử công bình. Tội lỗi chúng ta, Người mang vào thân mà đưa lên thập giá, hầu đối với tội lỗi, chúng ta như đã chết rồi để từ nay sống đời công chính. Nhờ mang thương tích, mà anh em được chữa lành”(1Pr 2,21-24).

 

          Thánh Phaolô nói :”Người bỏ cái trước, để lập cái sau”(Dt 10,9), nghĩa là Người bỏ hy lễ Đạo Cũ để thiết lập hy lễ Đạo Mới.  Vì sao Thiên Chúa không ưng việc tế lễ Đạo Cũ ? – Vì nó chỉ là tượng trưng cho việc tế lễ hoàn hảo vô cùng của chính Ngôi Hai nhập Thể ở trong tương lai. Nó có giá trị trước mặt Chúa, cũng là nhờ giá tế phẩm chính thức sau này.

 

          Nếu thế, thứ tế phẩm nào mới trông được làm cho Thiên Chúa hoàn toàn thỏa mãn ?  Để Chúa hoàn toàn thỏa mãn, phải có vật nào hoàn hảo (Dt 7,26) tự ý hiến thân, không bị cưỡng bức như các loài vật ta bắt đem sát tế; cũng không phải hiến cho ngọn lửa trần thiêu hủy trong một khoảnh khắc, như giết súc vật thiêu tế trong Đạo Cũ, nhưng phải là vật tự hiến cho ngọn lửa Tình vô cùng Thiên Chúa thiêu đốt liên lỉ đời đời.  Nghĩa là chính tế phẩm ấy còn phải có sức yêu mến, đền tạ đầy đủ vô cùng, không như lễ vật đạo cũ không biết kính mến, cũng chẳng đền tạ được xứng đáng hết các tội lỗi, như thánh Phoalô đã nói :“Các thầy chủ tế hằng ngày đứng ra hành lễ, hiến tế nhiều lần cũng bấy nhiêu thứ, mà tuyệt nhiên không thể hủy diệt tội lỗi; trái lại, Chúa Kitô dâng chỉ có một lễ duy nhất đền tội, đoạn Người vẫn ngự  bên hữu Thiên Chúa liên mãi”(Dt 10,11-12).

 

          Còn một điểm hệ để cho Thiên Chúa được thỏa mãn trọn, là vị chủ tế cần phải xả thân tự hiến chính mình làm lễ vật cúng tế, không mượn vật khác xả tế thay như trong đạo cũ. Tất cả những đòi hỏi trên đều có đầy đủ nơi Chúa Giêsu và chỉ nơi mình Người thôi. Đó chính là Ngôi Hai nhập thể tự ý toàn hiến thân mình làm vật xả tế, để cho tình yêu Thiên Chúa thiêu đốt liên lỉ đời đời.

                    (Lm Phạm kim Xuyến, Lý tưởng toàn hiến, 1973, tr 101-102)

 

II. ABRAHAM VÀ GIÓP, HAI KHUÔN MẶT TÍN THÁC.

 

          1. Việc hiến tế của Abraham.

 

          Việc hiến tế của Abraham là việc làm của con người có một đức tin siêu việt, một lòng tín thác hoàn toàn và tuyệt đối. Xét theo lý trí của con người thì việc làm của Abraham mâu thuẫn với lời hứa của Thiên Chúa cho dòng dõi của ông được đông như sao trên trời, như cát dưới biển… Nhưng ông cứ làm về phía ông, còn về phía Thiên Chúa thì Ngài sẽ lo.  Như thế mới làm nổi bật quyền năng của Thiên Chúa, Đấng làm nên cái có thể trong cái không có thể đối với con mắt loài người.

 

          Mờ sáng hôm ấy, người ta thấy một cụ già  lặng lẽ dẫn đứa con giã từ Mambrê yêu dấu để ra đi.  Họ đi về đâu ? Thưa, đi đến một ngọn đồi xa lạ, theo một mệnh lệnh huyền bí. Trên đường trường hai người rong ruổi : cụ già lầm lũi đi trước, đứa trẻ lóc cóc theo sau. Suốt ba ngày đường cha con vẫn im lặng, âm thầm rảo bước, chẳng ai hé miệng nói gì. Mỗi người hình như đang bận tâm theo đuổi một ý nghĩ nào đó.

 

          Người cha dáng vẻ ưu tư, đang băn khoăn, thắc mắc về những chuyện mới xẩy ra đã làm xáo trộn nếp sống an bình của ông. Cả một cuốn phim của thời dĩ vãng quay nhanh trong óc ông, với những vui buồn đắp đổi, bao hy vọng lóe lên sáng ngời… rồi vụt tắt !

 

          Lúc Thiên Chúa gọi, Abraham đã 75 tuổi đời mà vẫn hiếm hoi và cũng chẳng còn mong mỏi nông nỗi gì nữa. Sara, vợ ông, cũng thế.  Nhưng rồi tự ý Thiên Chúa, Ngài đã hứa cho dòng dõi ông nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển (St 15,5t). Ít lâu sau – Isaác – tên người con – ra đời để lời Giavê Thiên Chúa ứng nghiệm, và Abraham có thể tin rằng đứa con đây sẽ kế nghiệp mình như thiên ý đã quyết định. Thế mà oái oăm thay ! Chính Đấng đã đề nghị, đã cam kết, nay lại yêu cầu tổ phụ hủy bỏ cái phương tiện thiết yếu để nối dõi tông đường, lại đòi tổ phụ phải đem chính con một yêu dấu nhất đời để hiến tế Ngài.  Như thế thì Chúa đùa hay nói thật ?

 

          Có lẽ vì quá bận bịu trong tâm khảm, Abraham không kể chi ngoại cảnh, và cũng chẳng để ý đến  đứa con đang lẽo đẽo theo sau.  Trong khi đó, Isaac cũng loay hoay với những băn khoăn, thắc mắc riêng mà vẫn chưa tìm ra giải đáp, nên vội cất tiếng :”Cha ơi, củi có, lửa có, nhưng con chiên làm lễ vật ở đâu”(St 22,7) ?

 

          Abraham dừng bước, dáng vẻ thẫn thờ, trên khuôn mặt in hằn nét đau đớn. Thật vậy, câu hỏi của Isaac đã đưa tổ phụ về với hiện tại và đặt ông trước một thực tế bi đát, xót xa.  Nhưng dù hoàn cảnh éo le, dù phải bước đi trong đêm tối nghi nan, tổ phụ vẫn cương quyết giữ vững niềm tin nơi Thiên Chúa, nên đã ôn tồn trấn tĩnh con :”Lo gì con, lễ vật Thiên Chúa sẽ liệu”(St 22,11t).

 

          Thế rồi hai cha con lặng lẽ tiếp tục lên đường, cha già đi trước, đứa trẻ lững thững vác củi theo sau.  Đến đỉnh núi Thiên Chúa đã định, Abraham dựng bàn thờ, chất củi lên, trói chặt con đặt trên đó, rồi một tay châm lửa, một tay cầm dao sẵn sàng giết chết chính con một yêu quí nhất đời, là niềm an ủi của tuổi già, là tương lai và hy vọng của cả một dân tộc… để hiến dâng cho Thiên Chúa (St 22,9tt).

 

          2. Lòng kiên nhẫn tin tưởng của Gióp.

 

          Kinh Thánh còn kể lại : xưa ở xứ Us, có một người tên là Gióp, một người liêm khiết và chính trực, kính sợ Thiên Chúa và xa lánh điều gian ác. Ông sinh được 7 con trai và 3 gái. Ông có đàn súc vật gồm 7000 chiên, 3000 lạc đà, 500 đôi bò, 500 lừa cái và một số rất đông tôi tớ. Ôâng là người giầu có nhất trong các con cái Phương Đông (G 1,1-3).

 

          Nhưng Thiên Chúa cho quỉ Satan thử lòng liêm khiết và lòng trung tín của ông : ông liên tiếp được tin báo người ta đã cướp hết gia sản, tôi tớ và cả mấy đứa con cũng chết luôn. Được tin ấy, Gióp chỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, phục lậy và nói :

                              Tôi đã trần truồng lọt khỏi lòng mẹ,

                              Tôi cũng sẽ trần truồng về lại nơi đó.

                              Giavê đã cho, Giavê đã lấy lại

                              Đáng chúc tụng thay danh Giavê”.

                                             (G 2,21)

 

          Cơn thử thách cũng chưa hết… Chúa còn cho Satan hành hạ chính thân xác ông : Satan lui khỏi nhan Giavê, và dùng ung sang hiểm độc  đánh Gióp từ gan bàn chân lên tới đỉnh đầu. Gióp dùng một mảnh sành để gãi và ngồi giữa đống tro.  Vợ ông bảo ông :”Ôâng còn kiên quyết trong sự liêm khiết của ông nữa thôi. Hãy nguyền rủa Thiên Chúa rồi chết đi”.  Nhưng ông bảo bà :”Bà nói như một mụ điên. Chúng ta nhận điều tốt lành từ Thiên Chúa, làm sao chúng ta lại không nhận  điều bất hạnh” ? Trong tất cả các sự ấy, môi miệng Gióp không hề phạm lỗi”(G 2,7-10).

 

          Sau những cơn thử thách cực kỳ gay go ấy, Thiên Chúa đã thưởng cho lòng trung thành của Gióp và ban tặng gấp đôi của cải :”Giavê đã chúc lành cho tình trạng mới của Gióp hơn cả tình trạng cũ. Ôâng có 14.000 chiên và 6000 lạc đà, 1000 cặp bò 1000 lừa cái.  Ôâng được 7 trai và 3 gái… Sau đó, Gióp còn sống thêm 140 năm, và ông đã thấy con cái và cháu chắt mình đến bốn đời”(G 42,12-16).

 

          3. Hai khuôn mặt, một lý tưởng.

 

          Trước những thử thách cực kỳ gay go ấy, mỗi người một phương diện khác nhau, nhưng cả hai đều bị thử thách đến mức không thể tưởng tượng được, hầu như quá sức con người bình thường, nhưng cả hai ông đã gặp nhau được một điểm là  hai ông đã tuân phục thánh ý Chúa, tin tưởng phó thác hoàn toàn  vào sự khôn ngoan của Ngài, sống dưới sự hướng dẫn của Ngài, còn việc của Thiên Chúa thì để cho Ngài lo.

 

          Cho nên, chúng ta thấy, thử thách cần cho con người để biết lòng trung thành và mức độ thánh thiện của họ như “lửa thử vàng, gian nan thử người công chính”(x. 1Pr 1,7).  Trong Thánh Kinh còn ghi lại lòng tin của Abraham, Giuse, Maisen, Giosuê đã bị thử thách nhưng các ông đã thắng (x. Hđ 44,20; Dt 11,1-40; 1Mac 2,52). Nhưng những thử thách còn ghi lại những trang sử đầy đen tối khi chúng ta đọc đoạn Thánh Kinh nói về thử thách mà Chúa muốn thử lòng nguyên tổ Adong Evà (x. St 3,1tt). Nhưng rồi chúng ta cũng lấy làm phấn khởi khi đọc đoạn Phúc âm thánh Luca nói về việc Chúa Giêsu bị đưa vào sa mạc và chịu ma quỉ cám dỗ… Chúa Giêsu đã thắng và đã đem lại cho chúng ta  một tấm gương sáng ngời (x. Lc 4,1tt).

 

III. KHUÔN MẶT TUÂN PHỤC CỦA CHÚNG TA

         

          1. Ý nghĩa sự tuân phục.

 

          Tuân phục thánh ý Chúa là đặt ý Chúa lên trên ý riêng của ta. Muốn được thế, chúng ta phải hủy diệt ý riêng, từ bỏ sự tự do của mình, hiến dâng nó cho Chúa như dâng một lễ vật toàn thiêu để không còn giữ lại cho mình một chút gì. Đó là sự tuân phục hoàn toàn thánh ý Chúa và ta sống hoàn toàn tin tưởng phó thác nơi Người.

 

          a) Trong kinh Lạy Cha.

 

          Chúa Giêsu đã dạy chúng ta cầu nguyện, và kinh Lạy Cha là khuôn vàng thước ngọc cho sự cầu nguyện của ta. Trong các lời chúng ta cầu xin với Chúa, có một câu đáng để chúng ta lưu ý, nhất là trong bài suy niệm này :”Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Chúng ta cầu nguyện để cho thánh ý của Chúa được thực hiện dưới đất là nơi lòng mọi người, nhất là nơi mỗi người chúng ta.

 

          Mỗi người có một vật quí giá nhất đời và phải hy sinh của báu đó là cả một sự đau đớn cho ta.  Abraham coi Isaac là của quí giá nhất đời nên khi phải giết con tế lễ Chúa, hẳn ông đã phải đau xót lắm.  Đứa con quí nhất của chúng ta, có lẽ là ý riêng, và nếu phải bỏ ý riêng đi thì đó là cả một sự hy sinh lớn lao.  Chúng ta hãy học gương bà thánh Giêtruđê, mỗi ngày đọc đi đọc lại câu than thở này tới 365 lần :”Xin cho thánh ý Chúa được nên trọn nơi con”.

 

          b) Từ bỏ sự tự do của mình.

 

          Chúa Giêsu nói với chàng thanh niên ao ước muốn sống hoàn thiện :”Nếu con muốn nên trọn lành, hãy đi bán tất cả những gì con có, bố thí cho người nghèo… rồi tới và theo Ta”(Mt 19,21), đó là lời khuyên khó nghèo của Phúc âm. Theo thánh Tôma Aquino, đó là lời khuyên vâng lời tự nguyện.

 

          Theo Chúa Giêsu, cũng có nghĩa là đáp lại đầy đủ lời Người mời gọi :”Nếu ai muốn theo Ta, hãy từ khước chính mình” (Mt 16,24). Mà, tác động từ bỏ lớn nhất con người có thể thực hiện được là hy sinh tự do của mình, thuận phục hoàn toàn trong mọi sự theo đức vâng lời.

Thực thế, đối với con người không có gì quí giá bằng ý chí tự do, vì chính tự do làm cho con người  trở nên chủ nhân của người khác; nhờ tự do, họ có thể sử dụng và hưởng thụ những tài năng khác và đặt định cho mọi hành vi của mình.  Cũng như con người từ bỏ của cải hay bà con thân thích, họ từ bỏ những thứ đó là từ bỏ tự do của ý riêng; để làm cho họ ñöôïc tự chủ, họ cũng khước từ chính mình”. (Sống với Chúa, tập 3, tr 232-234)

 

          c) Như lễ vật toàn thiêu.

 

          Theo Thánh Kinh, lễ vật toàn thiêu  là một lễ vật hoàn hảo nhất đối với Do thái giáo. Trong nghi lễ này, người dâng hiến đích thân đem lễ vật tới bàn thờ. Lễ vật có thể là chiên, bê, bò… tùy gia cảnh, tùy trường hợp. Người dâng hiến đặt tay trên lễ vật, có ý ám chỉ lễ vật là tượng trưng tấm lòng chân thành của mình, sẽ hiến sự sống thay cho mình, đoạn cầm dao sát tế : máu đào lai láng chảy, rồi rảy chung quanh và trên mặt bàn thờ. Tiếp đó, tất cả lễ vật sẽ được thiêu tế thành hương khói xông lên trước tòa Thiên Chúa. Trong các lễ dâng khác, người ta còn được giữ lại một phần, nhưng ở đây phải thiêu tế hết, không được cắt xén, trừ lại, bớt lại một tí gì.  Ngay cả tro của lễ vật cũng phải trộn với một thứ hương liệu làm thành hương thơm, đêm ngày nhả khói kỷ niệm trước tôn nhan Chúa.

 

          Của lễ toàn thiêu mà chúng ta dâng tiến Chúa chính là ý riêng, ý chí tự do của ta. Đã dâng cho Chúa, ta không được quyền giữ lại một chút gì.  Đó là dâng hiến hoàn toàn và vô điều kiện.

 

          2. Tuân phục ý Chúa như thế nào ?

 

a)   Như một dụng cụ.

 

          Chúng ta là sản phẩm của Chúa dựng nên, cho dù ta đẹp đẽ, hay ho mấy cũng chỉ là dụng cụ của Chúa  dùng trong việc làm sáng danh Nước Người.  Dụng cụ là gì ? Là đồ dùng để làm một việc gì như chàng, đục, cưa để làm thợ mộc; máy may, kim chỉ dùng để may áo… Dụng cụ được coi như một phương tiện cần dùng để đi tới đích.  Mà thân phận của dụng cụ là ít được biết tới.  Người ta chỉ chú ý tới đồ vật được làm ra  hay chỉ nghĩ tới tác giả của nó.

 

          Chúng ta là dụng cụ của Chúa, những dụng cụ vô dụng được ở dưới sự sử dụng vô cùng khôn khéo của Thiên Chúa, để mặc dầu tự chúng ta là vô dụng, nhưng chính Chúa sẽ làm cho nó trở nên hữu dụng, ích lợi và còn cần thiết nữa, như người ta nói :

 

                                       Ai làm cho cải tôi ngồng,

                             Cho dưa tôi khú cho chồng tôi chê.

                                       Chồng chê thì mặc chồng chê,

                             Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ

                                              (Ca dao)

 

Truyện : Tuân phục thánh ý Chúa.

 

          Khi nói đến ông Leonardo da Vinci, chúng ta thường nghĩ ngay đến những phát minh khoa học và những bức họa nổi tiếng của ông. Chúng ta không biết rằng để giải trí, ông Leonardo da Vinci còn sưu tầm những chuyện cổ tích hoặc ñaët ra những câu chuyện vui như câu chuyện sau đây về một cuộc đối thoại tưởng tượng giữa tờ giấy trắng và cây viết :

 

          Tờ giấy trắng từ lâu nằm ù lỳ trên bàn giấy cùng với những đồng bạn khác, nhưng bỗng nó được chọn đem ra nằm giữa bàn và chịu cảnh cây viết mực đen ngòm vẽ lên nó không biết bao nhiêu là dấu hiệu mà nó không hiểu gì cả. Nó phàn nàn với cây viết như sau :

          - Tại sao anh lại làm thế ? Anh vẽ trên mình tôi những dấu đen làm mất đi sự trong trắng ban đầu. Anh làm nhục tôi thế này sao ? Anh làm hư cả cuộc đời tôi rồi.

          Nhưng cây viết trả lời :

          - Không đâu anh giấy ạ, anh hiểu lầm tôi rồi. Tôi không bôi đen anh đâu, tôi vẽ lên anh những dấu hiệu, nhöõng dòng chữ kể từ nay  anh không còn là một tờ giấy vô dụng nữa, nhưng có mang trên mình những sứ điệp. Anh trở thành kẻ cộng tác với con người, lưu giữ những tư tưởng cao siêu. Và vì thế được con người nâng niu, bảo vệ. Anh sẽ được sống mãi để trợ giúp cho con người.

          Tờ giấy chưa kịp trả lời cây viết thì nó bỗng nhìn thấy một bàn tay người quơ lấy những tờ giấy khác, trước kia trắng tinh nhưng nay đã đổi mầu, đầy bụi mà quăng và ngọn lửa bên cạnh. Tờ giấy bị vẽ trên mình những lằn mực đen kia mới hiểu được hành động của cây viết và lấy làm sung sướng, vì được trở thành như người cộng tác lưu giữ trong kho tàng trí khôn con người.

 

          Cuộc đời chúng ta có thể được so sánh như tờ giấy trắng. Nếu không chấp nhận để cho bàn tay của Thiên Chúa viết vào đó những dòng chữ, những chương trình hành động thì ta sẽ không được hạnh phúc trở thành người cộng tác với Thiên Chúa, trở thành những kẻ lưu truyền sự khôn ngoan của Ngài từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lúc đầu, tờ giấy đã không hiểu được hành động của cây viết vẽ lên những dấu lạ trên mình nó. Con người chúng ta  chắc cũng sẽ gặp trường hợp tương tự.

                             (Mạch nước trường sinh, tr 52)

 

          Vì là dụng cụ của Chúa nên chúng ta cần phải có thái độ khiêm nhường,  những thành công tốt đẹp không phải chỉ do chúng ta mà do Chúa, vì một bài thơ hay, không phải tự cái bút mà là do thi sĩ. Cái bút tốt hay xấu, có nó hay không  thì những vần thơ vẫn có trong đầu óc thi sĩ rồi.  Cũng đừng buồn khi không được dùng vào những việc cao vì không có tài : đôi guốc không hề phàn nàn vì phải đi ở dưới chân, chiếc mũ không hãnh diện vì được ở trên đầu người ta… ở đâu hay được dùng vào việc gì là tùy ở công dụng của nó và tùy ở quyền người sử dụng.  Chúng ta chỉ biết than thở với Chúa rằng :

 

                                      Khi hoàn tất việc phải làm

                             Nâng lòng lên Chúa mà than thở rằng :

                                      Này con vô dụng muôn phần

                             Phần con, con đã thi hành mà thôi.

                                             (Lc 17,10)

 

          b) Tin vào Chúa quan phòng.

 

          Chúa đã dựng nên mọi sự trong trần gian này và Người hằng điều khiển mọi sự trong trí khôn ngoan vô cùng của Người.  Chúng ta là con người thấp hèn làm sao có thể biết được những chương trình sâu nhiệm của Thiên Chúa ở trong vũ trụ được !  Hãy tin vào Chúa, và sống dưới sự hướng dẫn khôn ngoan của Người. Chúng ta hãy sống với Người như một đứa bé sống với gia đình, hoàn toàn phó thác tin tưởng.

 

Truyện : Lấy thứ kim cương nào ?

 

          Một vua kia muốn thử các con, xem ai khôn ngoan hơn,  đặng nối ngôi sau khi mình băng hà, bèn lấy thứ kim cương thật quí gói vào một gói bằng giấy rất xoàng, khó coi lắm. Còn một thứ kim cương giả bằng thủy tinh thì để vào trong hộp rất lịch sự có vẻ rực rỡ ưa nhìn. Đoạn, vua gọi người con cả đến, bảo tùy ý muốn chọn thứ kim cương nào thì chọn. Thấy gói xoàng, con đó bỏ qua, song chọn cái đẹp, té ra là thứ kim cương giả. Sau vua gọi đến con út, hỏi muốn chọn lấy kim cương nào. Con đó nhìn cha bằng một cặp mắt dịu hiền, rồi nói :

          - Thưa cha, xin cha lựa chọn dùm con.

          Vậy, vua cha chọn thứ kim cương thật trong gói xoàng, và bảo con đó hãy đợi để mình sửa soạn cách trọn vẹn hơn ữa.  Vua truyền thợ làm cái mũ triều thiên, trên đính thứ kim cương thật đó, coi rất đẹp đẽ, đoạn,  để vào trong hộp bằng vàng đẹp hơn cái hộp đựng kim cương giả trước ngàn lần.  Cuối cùng vua họp các thần dân lại tuyên bố rằng : Mai sau con út mình sẽ được nối ngôi làm vua.

                   (Ms Lê văn Thái, Những tia sáng 2, 1965, tr 37)

 

          Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có nhiều lúc phân vân không biết phải hành động ra sao cho khôn ngoan, làm thế nào lợi, thế nào hại. Chúng ta chỉ thấy cái việc lợi hại trước mắt, mà không biết cái lợi hại sau lưng, nhìn cái phúc là phúc tuyệt đối mà không biết cái họa đàng sau, và ngược  lại.

          Người khôn ngoan thì  nhìn cái phúc và cái họa dưới một khía cạnh khác. Họ bảo :”Phúc hề họa chi sở phục, họa hề phúc chi sở ý” : phúc là chỗ núp của họa, họa là chỗ dựa của phúc.  Cũng như họ bảo :”Dương trung hữu âm căn, âm trung hữu dương căn” : Trong dương có gốc âm, trong âm có gốc dương. Họa phúc cũng như âm dương tương liên tương ứng không thể rời nhau mà đơn phương tồn tại.

                            

Truyện : Ông lão mất ngựa.

 

          Một ông lão có con ngựa hay, một hôm tự nhiên đi mất. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói :

          - Mất ngựa, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi ?

          Cách mấy tháng sau, con ngựa trở về, dẫn theo một bầy ngựa hay khác. Hàng xóm cũng đến chia mừng. Ông nói :

          - Được nhiều ngựa hay, nhưng sao các ông biết  đó là phúc cho tôi ?

          Từ ngày có ngựa hay, con trai của ông lão ngày nào cũng thích cưỡi, rủi té què chân. Hàng xóm đến chia buồn. Ông nói :

          - Con tôi què, nhưng sao các ông biết đó là họa cho tôi ?

          Năm sau có giặc. Nhà vua bắt lính. Thanh niên đi lính, mười người chết chín. Con trai ông lão vì què khỏi đi lính, nên cha con còn hủ hỉ với nhau.

                   (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1973, tr 257)

 

          c) Sống lạc quan và phó thác.

 

          Một khi đã biết sống tin vào Chúa quan phòng, chúng ta sẽ dễ dàng sống lạc quan vui vẻ như em bé trong tay mẹ mình, sống một đời thảnh thơi không lo lắng gì (x. Tv 131).  Chúng ta phải có cái nhìn lạc quan vào sự đời, biết tìm ra cái hay, cái tốt để làm cho đời sống thêm sung sướng.

 

          Ta hãy nhận xét một bức thảm Ba tư. Nó mịn, đẹp, mầu sắc rực rỡ lắm ? Nhưng hãy lật mặt trái nó ra mà xem : toàn là những sợi chỉ chi chít. Đời sống ta cũng thế. Ta chỉ trông thấy mặt trái thôi.  Mặt phải tức là cái tư tưởng cao đều ở trong tay Chúa. Chính Chúa đã dệt tấm thảm đời sống ta, trí khôn chúng ta chỉ có hạn không hiểu được ý định của Người. Tư tưởng của Người không phải là của ta, đường lối Người  không phải là đường lối của ta (Tihamer Toth, Chí khi người thanh niên, tr 120).

 

          Hằng ngày chúng ta được Chúa ban cho biết bao nhiêu sự may mắn, hạnh phúc…sao ta không biết nhìn nhận cái ấy để cảm ơn Chúa, mà chỉ chú ý nhìn  những cái bất hạnh để rồi buồn phiền than thân trách phận, và đôi lúc, còn dám có những ý tưởng phạm thượng ! Đừng nhìn mặt trái của tấm thảm Ba tư, mà hãy nhìn mặt phải, ta sẽ thấy nó đẹp, đáng yêu.

 

          Phần đông chúng ta thường quan niệm hạnh phúc là một cái gì khó tìm thấy. Khó đạt được và phải mua bằng một giá rất đắt, nhất là phải có rất nhiều tiền và thế lực. Có kẻ lại còn cho hạnh phúc không có trên cõi đời này. Có kẻ lại cho rằng hạnh phúc nếu muốn thực hiện trên cõi đời này, phải làm một cuộc đại cách mạng bằng xương máu… Sao mà quan trọng thế ?

 

          Kim Thánh Thán, trái lại, chứng minh cho ta thấy rằng không cần tìm đâu ra xa cả, nó quanh quẩn bên ta hằng giây hằng phút.  Có cái sung sướng nào mà không nằm trên cái khổ. Sướng và khổ không bao giờ rời nhau. Muốn được sướng mà lánh khổ là việc làm vô lý. Vật chất là điều kiện của tinh thần, cho nên có cái sướng tinh thần nào mà không lệ thuộc vào vật chất ? Có đói, ăn mới ngon ! Ai mà không biết (Nguyễn duy Cần, Cái cười của thánh nhân, 1973, tr 129) !

 

          3. Tuân phục Chúa trong sự gì ?

 

          Chúng ta không ngập ngừng mà thưa ngay rằng : phải tuân phục Chúa trong hết mọi sự vì chúng ta đã tận hiến cho Chúa trong đời tu trì rồi.  Việc bước theo Chúa này – như thánh Tôma quan niệm – đòi hỏi hai điều kiện căn bản : từ khước và dâng hiến.  Thế gian đã cung cấp cho khuynh hướng xấu của ta ba loại lương thực, theo thanh Gioan Tông đồ, đó là thèm muốn của xác thịt, thèm muốn của con mắt và kiêu ngạo của sự đỡi x. 1Ga 2).  Và ở trong thế gian này, không có gì khác  cám dỗ con người phạm tội ngoài ba cái ma lực vừa kể. Thành thử, muốn trung thành với Thiên Chúa, tiên vàn phải dứt bỏ những đối tượng di dưỡng khuynh hướng tội lỗi vốn nằm vùng trong bản thân ta, bằng cách tuyệt tài, tuyệt sắc và tuyệt ý.

 

          Như thế vẫn chưa đủ, người tu sĩ cần phải dâng hiến mọi giá trị chính đáng nhất ở đời : của cải trần gian, thân thể nguyên vẹn và ý chí toàn diện. Dâng như thế là dâng tất cả, có thể nói  đó là một lễ toàn thiêu, một hiến tế hoàn hảo. Ngoài ra, lời tuyên khấn còn thực hiện một sự bóc lột, một sự chuyển nhượng triệt đẻ quyền tư hữu.  Một khi đã tuyên khấn thì thời giờ, tài sản, khả năng, sức khỏe, thân thể… của tu sĩ, không còn là của tu sĩ nữa, mà đã thuộc về Thiên Chúa. Từ nay tu sĩ phải chết cho thế gian, chết cho chính mình để hoàn toàn sống cho Thiên Chúa, sống vì tha nhân.  Tu sĩ là những người đã được tách biệt để chuyên tâm phụng thờ Thiên Chúa và phục vụ nhân loại.

 

Truyện : Gương của cha Pereyve

 

          Cha Pereyve tưởng mình sẽ chết non, trong dịp cấm phòng chịu các chức nhỏ, ngài viết : bệnh của tôi không biết  sẽ kéo dài bao lâu nữa, có khi đến mùa thu sắp tới hay sẽ dai dẳng cho đến mùa xuân sang năm, nếu được như vậy, càng hay, cứ thường tình mà nói, tôi có lẽ mà buồn.

          Lạy Chúa, Chúa biết con muốn làm Linh mục, muốn giảng giải, giải tội, viết sách, nhưng thánh ý Chúa muốn cho con làm việc khác : việc chết non, việc vui lòng đón nhận cái chết. Lạy Chúa, con đã suy nghĩ, đã học hỏi kỹ điều Chúa dạy, và con xin giơ tay đón nhận. Lạy Chúa Giêsu, con xin ký nhận vào giấy đòi chết, và vui lòng đi. Con rước lấy sự chết với tất cả những gì tùy theo : ly biệt, đau lâu ốm dài, chiến đấu gay go, chết lúc nào đang ham sống bồng bột – hai mươi ba cái xuân – chết mà không dám phàn nàn vì chưa thực hành được những điều mơ ước, dầu khởi sự cũng chưa.                                                (Trần công Hoán, Truyện hay 3, 1965, tr 54)

 

          4. Trong hoàn cảnh thực tế của mỗi người.

 

          Mỗi người có một thánh giá riêng hợp với sức mình, vì Chúa không bắt ai phải chịu thử thách quá sức chịu đựng. Chính Chúa đã trả lời cho thánh Phaolô khi ngài bị thử thách nặng nề :”Sufficit tibi gratia mea : ơn của ta đã đủ cho con (2Cr 12,9). Những thánh giá đó có thể là bệnh tật, làm ăn thất bại, hoàn cảnh gia đình, bởi những người chung quanh, những biến cố xẩy ra ngoài y muốn…

 

          Nhưng dù sao, cũng cần phải có thánh giá, phải có hy sinh. Chính thánh Phaolô đã quả quyết :”Không có đổ máu, không có phần rỗi”(Dt 9,22).  Lời sách Khôn ngoan cũng dạy ta như vậy :

Con ơi, nếu con muốn được phụng sự Chúa, con hãy sẵn lòng chịu thử thách. Con hãy tạo lấy một tâm hồn ngay thẳng, võ trang bằng lòng can đảm, lúc gặp nghịch cảnh đừng nản chí. Con cứ bám chặt lấy Người, đừng rời xa, mới mong được cất nhắc lên trong ngày sau hết. Có xẩy đến sự gì, con cứ đón nhận đi và trong các cơn thăng trầm của thân phận con, con hãy tỏ ra kiên nhẫn, vì vàng cần phải thử trong lửa và người được chọn cần được thử trong lò lửa nhục nhã” (Kn 2,1-5).

 

          Thử thách để tẩy luyện linh hồn và làm cho linh hồn được vững vàng trong đường nhân đức.  Người làm vườn mà vì thương hại cây hồng không muốn bạo tay cắt những cành sâu đi, thì không phải là người làm vườn khéo : cây hồng được “nương chiều” như thế cũng không thể nở hoa được… Người không muốn hy sinh, không muốn quên mình cũng không bao giờ có ý chí vững chắc được.

 

          Chúng ta hãy xem gương thánh nữ Têrêsa Hài Đồng đã sống thế nào trước những gian lao thử thách trong đời sống thường ngày. Thực ra, những sự hy sinh của thánh nữ chẳng lớn lao gì,  nhưng thánh nữ đã biết lợi dụng  khai thác triệt để với lòng yêu mến, do đó, các hy sinh ấy có giá trị to lớn. Ta hãy nghe thánh nữ kể :

 

Hai chúng con giùng giằng lèo xèo làm cho mẹ Bề trên (đang liệt bệnh) mở mắt thức dậy, thế là mọi lỗi đổ cả lên đầu con. Chị kia liến thoáng  nói một thôi dài, mà đại ý chỉ có thế này : chính là tại Têrêsa Hài đồng đã làm om sòm. Nóng mặt, con muốn cãi lại ngay… Nhưng con bảo mình : nếu mà cãi phải cho mình bây giờ, chắc sẽ mất sự bằng an trong lòng. Đàng khác, vì còn kém nhân đức lắm, nên con đã không thể đứng yên để nghe chị ấy đổ tội cho mà không thưa lại vài lời cho ra nhẽ, con liền tính kế “đào vi thượng sách”.

 

          Nghĩ xong, con lủi đi như con quốc… nhưng vì trái tim quá hồi hộp thổn thức không thể bước đi xa được, chân như rủn ra,  con phải cưỡng bách  ngồi xệp xuống chân thang để được bình tĩnh hưởng cái thú không chiến mà thắng” (Trích Một tâm hồn, tr 40-41)

 

          Những hy sinh nhỏ mọn hằng ngày, tuy nhỏ mọn tầm thường, nhưng rất có lợi cho ta nếu ta biết lợi dụng nó. Trong đời sống hằng ngày, không thiếu gì những dịp để chúng ta có thể làm những hy sinh dâng cho Chúa. Những xích mích va chạm trong đời sống hằng ngày thiếu gì, nhưng mấy khi chúng ta biết chịu đựng như Têrêsa Hài đồng !

 

          Cha Sertillanges nói :”Hãy dùng những viên đá người ta ném mình để xây nhà cho mình”. Đúng thế, chung quanh ta có biết bao nhiêu người luôn tìm cách phê bình chỉ trích mà không ai giúp đỡ ta hành động tốt đẹp hơn, làm gì họ cũng chê, nói gì họ cũng bắt bẻ được. Nếu ta cứ ngồi thu nhặt những hòn đá người ta ném ta để ném lại họ, thì không bao giờ hết :

 

                                       Chỉ đâu mà buộc ngang trời,

                              Tay đâu bụm miệng người đời thế gian.

 

          Thê nên tốt hơn hết là biết dùng những hòn đá họ ném ta để xây dụng cho chính mình. Nếu là những vu khống cáo gian :  chúng sẽ làm tăng giá trị cho ta  trước tòa phán xét của Thiên Chúa. Thiên Chúa mới thấu hiểu suốt tâm trí, còn con người chỉ xét đoán theo cái họ trông thấy bên ngoài. Như thế, mọi sự đều có thể sinh ích lợi cho ta.

 

Truyện : Con hổ và lũ khỉ.

 

          Người ta kể chuyện ngụ ngôn như sau : trong một khu rừng có một con hổ lớn và dữ tợn, lũ khỉ ghét con hổ này lắm. Một ngày kia, chẳng may, con hổ bị sa xuống hố do người thợ săn đào sẵn. Không còn cách nào thoát thân, con hổ chỉ còn biết  ngồi chờ thần chết đến…

 

          Lũ khỉ đi qua thấy thế mừng lắm, chúng chế diễu và thay nhau ném đá, lấy đất và bẻ các cành cây  ném xuống con hổ cho bõ ghét. Con hổ chỉ còn biết ngồi chịu trận, không còn biết làm cách nào khác. Thấy thế, lũ khỉ thích chí càng ném hăng, ném mãi không chán, nhưng không ngờ, chính những hòn đá, cành cây ném xuống nhiều quá, làm cho hố cứ đầy dần lên, đến nỗi con hổ có thể nhờ đó mà nhảy ra khỏi hố được.

 

          Đời là thế. Đau khổ cũng có ý nghĩa riêng của nó. Người ta nói :”Cái khó nó bó cái khôn”. Nếu ta biết lợi dụng đau khổ thì nó sẽ trở nên có lợi cho ta : cũng như một hạt cát, nếu rơi vào mắt sẽ làm ta khó chịu, đau khổ; nhưng nếu những hạt cát ấy  rơi vào miệng một con sò thì nó sẽ biến thành một hạt ngọc trai quí giá.  Đau khổ đi theo chúng ta như hình với bóng, không thể nào rời nó được.  Nhưng có một cái lạ : nếu ta đuổi nó thì cái bóng đi mất, nếu ta chạy trốn thì nó chạy theo.  Chỉ còn có cách sẵn sàng chấp nhận đau khổ  thì đời ta mới sung sướng được.

 

KẾT LUẬN

 

          Chúng ta đang mừng lễ Suy tôn Thánh giá Chúa. Chúng ta hãy suy ngắm sự thương khó Chúa để thông cảm với những sự thương khó của Chúa Giêsu đã chịu chết để chuộc tội cho chúng ta và toàn thể nhân loại.  Đặc biệt chúng ta hãy suy ngắm đoạn Phúc âm  nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện trong vườn Cây Dầu để nhờ đó chúng ta thêm hăng hái theo Chúa trong bước đường tu trì,  nhất là chúng ta biết quên mình đi để tuân phục thánh ý Chúa một cách trực tiếp hay qua trung gian.  Chớ gì trong đời sống, ta luôn thưa được với Chúa trong mọi cảnh ngộ rằng :”Lạy Cha,  xin theo ý Cha, đừng theo ý con”(Mt 26,39; Mc 14,36; Lc 22,42; Ga 12,27).

 

          Những đau khổ, những trái ý hằng ngày là những dịp tốt để chúng ta dâng cho Chúa nhiều hy sinh. Nếu chúng ta biết lợi dụng, những hy sinh nhỏ mọn ấy sẽ trở nên những viên ngọc đặt vào triều thiên cho chúng ta trên thiên đàng.

 

Truyện : Hạt trân châu.

 

          Ngày xưa có ba chàng kỵ mã vượt qua một bãi sa mạc quạnh hiu không một bóng người.  Một hôm trời vừa sấp tối, ba chàng kỵ mã  cũng vừa đến một bờ suối đã khô cạn từ lâu. Bỗng chốc trong đêm tối có một tiếng nói bí mật  vang lên mơ hồ :

          - Hãy dừng bước lại.

          Cả ba đều tuân lệnh. Tiếng nói bí mật ấy lại tiếp tục vang lên mơ hồ :

          - Các ngươi hãy xuống ngựa, bước xuống lòng suối, nhặt lấy cho mình ít đá sỏi, bỏ vào túi rồi tiếp tục lên đường.

          Cả ba làm theo lời chỉ dạy thiêng liêng.  Rồi tiếng nói kia lại cất lên trầm ấm :

          - Hay lắm, các ngươi đã làm theo lệnh ta. Ngày mai, khi vầng đông vừa ló rạng, các ngươi sẽ vừa sung sướng vừa buồn bã.

          Các kỵ mã lên đường rong duổi ban đêm. Quả đúng như lời mách trước, khi mặt trời vừa lên, ba chàng kỵ mã thấy cái gì  lấp lánh trong túi mình. Thì ra,  những hòn sỏi họ lấy khi hôm trước bây giờ đã trở thành những hạt trân châu sáng ngời muôn sắc. Cả ba đếu sung sướng, nhưng cũng vừa nuối tiếc. Họ sung sướng vì nhận được của báu, nhưng họ hối tiếc vì nhặt ít quá.

                   (Nguyễn văn Huệ, báo Rạng đông, số 64, th 11/1970, tr 26)

 

          Để kết thúc bài suy nieäm hôm nay, chúng ta hãy cùng nhau sốt sắng đọc kinh dâng mình của cha Charles de Foucauld để thề hứa với Chúa là sẽ luôn luôn tuân phục ý Ngài :

 

Lạy Cha, con phó trót con cho Cha,

Xin hãy làm nơi con mọi sự đẹp ý Cha.

Cha làm chi mặc lòng, con cũng cám ơn Cha.

Con sẵn sàng luôn luôn, con nhận lãnh tất cả, miễn ý Cha làm tròn trong con, trong hết thảy loài Cha tạo dựng :

Con chẳng muốn chi khác nữa, vì Cha là Chúa trời con.

Con phó trót linh hồn con trong tay Cha, con dâng linh hồn con lên Cha, với tất cả tình yêu của lòng con.

Vì con mến Cha, và vì mến Cha nên con thấy cần phải hiến thân con.

Lạy Cha, con phó trót mình con cho Cha, không do dự đắn đo, song vô cùng tin cậy. Vì Cha là Cha của con.

 

Lm Giuse Đinh lập Liễm

          Giáo xứ Kim phát

          Đà lạt


Mục Lục