Thánh Bác-na-ba Tông Đồ
Lễ kính ngày 11 tháng 6
Thánh Bác-na-ba vốn là một Thầy Lê-vi, và là con của một chủ
trang trại người Sýp, gốc Do-thái. Tên khai sinh của Ngài là Giu-se, nhưng các
Tông Đồ đã đổi tên cho Ngài thành Bác-na-ba, nghĩa là người có tài yên ủi (Cv
4,36). Trong cuộc bầu chọn để trở thành thành viên của nhóm Mười Hai, Ngài cũng
là một trong hai ứng cử viên được đề cử để thế chỗ cho Giu-đa Ít-ca-ri-ốt. Tuy
nhiên khi các Tông Đồ tổ chức rút thăm thì Ngài đã không trúng, nhưng thánh
Mát-thi-a đã trúng (Cv 1,23-26). Sau khi gia nhập cộng đoàn Giáo hội sơ khai, Thánh
Nhân đã bán hết tài sản, nhà cửa và ruộng vườn của mình đi, lấy tiền đem đặt dưới
chân các Tông Đồ (Cv 4, 36-37). Thánh Nhân còn là người có tài khuyên bảo, đầy
Thánh Thần và Đức Tin (Cv 11,23-24). Không những thế, Thánh Bác-na-ba còn là
người bảo lãnh để Cộng đoàn Giáo hội tiên khởi tại Giê-ru-sa-lem đón nhận Thánh
Phao-lô, khi vị Tông Đồ này trở lại (Cv 9,26-27).
Sau khi Thánh Phao-lô bị gửi về quê, còn mình thì được các Tông
Đồ cử đến Antiochia (tức Antakya ngày nay), Thánh Bác-na-ba đã trẩy đi Tác-xô để
tìm Thánh Phao-lô. Sau đó cả hai cùng trở lại Antiochia và cùng hoạt động truyền
giáo tại đó trong suốt một năm (Cv 11,22-26). Thánh Bác-na-ba cũng đồng hành với
Thánh Phao-lô trong cuộc hành trình truyền giáo đầu tiên tới đảo Sýp, cũng như
tới vùng Tiểu Á. Cả hai đã cùng tham dự Công Đồng Giê-ru-sa-lem. Tại Công Đồng
này, các Tông Đồ đã thống nhất quyết định sẽ thi hành sứ mạng truyền giáo cả ở
nơi người Do-thái lẫn nơi người gốc dân ngoại (Cv 15,2-35).
Một cuộc tranh cãi đã nổ ra giữa Thánh Phao-lô và Thánh
Bác-na-ba vì vấn nạn liên quan đến bổn phận phải tuân giữ những quy luật
Do-thái giáo đối với các Ki-tô hữu gốc dân ngoại (Gl 2,11-14; Cv 15,22-35), và
vì Gio-an Mác-cô, người em họ của Bác-na-ba. Do cuộc tranh cãi này nên hai vị
Tông Đồ đã chia tay nhau. Sau đó, Thánh Bác-na-ba cùng với Thánh Mác-cô đã đến
thăm các Cộng Đoàn tại đảo Sýp, quê hương của Ngài (Cv 15,39). Theo nhiều truyền
thuyết có tính huyền thoại, Thánh Bác-na-ba đã chữa lành nhiều bệnh tật bằng
cách dùng cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu mà Ngài luôn mang theo mình, để đặt
lên đầu các bệnh nhân. Cũng theo truyền thuyết, Thánh Bác-na-ba còn đến truyền
giáo tại Rô-ma, và đã ban Bí Tích Thanh Tẩy cho một tân tòng, mà sau này người
tân tòng ấy đã trở thành Giám mục của Rô-ma, tức Đức Giáo Hoàng Clê-men-tê I. Rời
Rô-ma, Ngài đến Mi-lan, và được coi là Giám mục tiên khởi của Giáo đoàn này.
Nhưng theo một truyền thuyết khác thì Thánh Bác-na-ba đã trở lại đảo Sýp, và tại
đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo thông qua việc bị ném đá đến chết.
Một số chuyên gia đã so sánh Thánh Bác-na-ba ngang hàng với
Thánh Phao-lô về tầm quan trọng của Ngài trong công cuộc truyền giáo cho dân
ngoại. Có một bức thư mang tên của Ngài, nhưng nó được coi là mạo danh, và cũng
được xếp vào hàng ngũ các sách Ngụy Thư. Bức thư này muốn chứng minh những huấn
giáo của Ki-tô giáo nguyên thủy về Chúa Giê-su Ki-tô và về cuộc khổ hình của
Ngài như là sự tương ứng và hài hòa với Cựu Ước; trong thời Giáo hội cổ đại, bức
thư này đôi khi được coi như thành phần của quy điển Tân Ước. Thực tế thì bức
thư đó đã xuất hiện khá muộn, chỉ khoảng vào năm 130, và với cách giải thích Cựu
Ước có tính bài Do-thái của mình, nên bức thư này không được công nhận là của
Thánh Bác-na-ba. Cũng có một cuốn Tin Mừng mạo danh Thánh Nhân, nhưng tiếc rằng
nó đã bị thất truyền. Một tác phẩm khác cũng mạo danh Thánh Nhân, nhưng mãi cho
tới thế kỷ XVI nó mới được biên soạn. Theo một truyền thống trước đây, mà truyền
thống này phát xuất từ Tertullianô, Thánh Bác-na-ba được coi là tác giả của Thư
gửi Tín Hữu Do-thái. Các Giáo hội Chính Thống đã liệt Thánh Nhân vào nhóm 70
môn đệ do đích thân Chúa Giê-su tuyển chọn.
Tương truyền về việc Thánh Bác-na-ba được hưởng phúc Tử Đạo tại
đảo Sýp xem ra đáng tin cậy hơn. Theo đó, Ngài đã được phúc Tử Đạo vào khoảng
năm 63 dưới thời hoàng đế Nero, và được an táng tại đó trong một hang mộ của một
nghĩa trang lớn thuộc vùng Salamis cổ, tức khu hoang tàn của Famagusta ngày nay
(phía Đông đảo Sýp). Một ngôi Thánh Đường của Giáo hội Sýp đã được kiến thiết
trên ngôi mộ của Ngài. Sau một cuộc tranh cãi lâu dài giữa các nhà lãnh đạo của
Giáo hội Sýp với Đức Thượng Phụ Giáo chủ Antiochia về tính độc lập của Giáo hội
Sýp, tại Công Đồng Ê-phê-sô, các Nghị Phụ đã đưa ra quyết định nghiêng về Giáo
hội Sýp, nhưng Antiochia đã thu hồi quyết định đó. Theo tương truyền, vào năm
477, trong một buổi tối, Thánh Bác-na-ba đã hiện ra với Đức Tổng Giám Mục
Anthemios của đảo Sýp, và đã chỉ cho Đức Tổng Giám Mục này biết vị trí ngôi mộ
của Ngài. Sau đó, thi hài của Thánh Nhân đã được tìm thấy. Khai quật ngôn mộ của
Ngài, người ta phát hiện ra rằng, khi Thánh Bác-na-ba qua đời, người bạn đường
của Ngài là Thánh Mác-cô, đã an táng Ngài một cách hết sức trang trọng. Trên ngực
của Thánh Bác-na-ba có đặt một bản sao cuốn Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu do
chính Thánh Bác-na-ba chép lại. Đức Tổng Giám mục Anthemios đã cấp tốc báo cho
triều đình hoàng đế Zenon tại Constantinopoli biết tin về vụ khai quật. Qua đó
vị Giám mục của Giáo hội Sýp đã thuyết phục được nhà cầm quyền rằng, Giáo hội
Zýp được thành lập bởi Thánh Bác-na-ba, nên không ít tính Tông Truyền hơn Giáo
hội Antiochia, và vì thế được coi là ngang hàng với Giáo hội đó. Một nguồn suối
đã bắt nguồn ngay bên cạnh ngôi mộ trống ngày nay. Nguồn suối này được cho là
có khả năng chữa lành cũng như có khả năng kỳ diệu, đặc biệt là đối với những
phụ nữ vô sinh và những bệnh ngoài da. Vào năm 1953, một nhà nguyện mới đã được
kiến thiết ngay trên phần mộ được cho là của Thánh Bác-na-ba.
Các Thánh Tích của Thánh Bác-na-ba đã được tôn kính tại nhiều
nhà thờ khác nhau trên nước Ý, và tại một số nơi khác như Prag (Tiệp Khắc),
Köln, Andechs (Đức), Toulouse (Pháp) và Namur (Bỉ).
Từ năm 1530, Hội Dòng do Thánh Anton Maria Zaccaria thành lập đã
đến đóng đô tại Tu Viện Thánh Bác-na-ba tại Mi-lan. Người ta cũng gọi Hội Dòng
này là Dòng Thánh Bác-na-ba.
Vào năm 1521, người Pháp muốn đánh chiếm thành phố Logroño của
Tây-ban-nha. Nhưng sau hơn 6 tuần vây hãm, người Pháp vẫn không sao chiếm được thành
phố này, nên đành phải rút quân. Ngày lui binh của quân đội Pháp rơi đúng vào
ngày 11 tháng 06 cùng năm. Vì thế, ngay sau khi quân Pháp triệt thoái, Thánh
Bác-na-ba đã được thành phố Logroño nhận làm Bổn Mạng. Trong ngày mừng Bổn Mạng
của mình, người dân thành phố Logroño luôn sử dụng cá để làm món ăn chính, vì
trong suốt hơn 6 tuần bị người Pháp vây đánh, dân chúng của thành phố này đã sống
sót được nhờ vào cá bắt từ hồ Ebro.
Ngay từ thế kỷ thứ IX, Thánh Bác-na-ba đã được Giáo hội Rô-ma
kính nhớ vào ngày 11 tháng 06, nhưng các Giáo hội Phương Đông thì lại cử hành Lễ
kính Thánh Nhân vào ngày 11 tháng 04.
Giáo hội Tin Lành và Giáo hội Anh giáo củng cử hành Lễ Kính
Thánh Bác-na-ba vào ngày 11 tháng 06.
Còn Giáo hội Chính Thống thì cử hành hai ngày để kính Thánh
Bác-na-ba, đó là ngày mồng 04 tháng Giêng và ngày 11 tháng 06.
Riêng tại Giáo hội Armenia thì Thánh Bác-na-ba được mừng kính tới
4 ngày, gồm: mồng 09 tháng 04; 11 tháng 06; 29 tháng 10, và thứ Năm sau Chúa Nhật
Suy Tôn Thánh Giá.
Giáo hội Cóp-tít cử hành hai ngày Kính Thánh Bác-na-ba: 11 tháng
06 và 17 tháng 12.
Giáo hội Chính Thống Syria cử hành ba ngày kính Thánh Bác-na-ba,
gồm: 11 tháng 05, 11 tháng 06 và 17 tháng 12.
(Theo heiligenlexikon.de)
Lm Đa-minh Thiệu O.Cist