LỄ THÁNH PHÊ-RÔ VÀ PHAO-LÔ (29/06)
Cv 12,1-11 ; 2 Tm 4,6-8.17-18 ; Mt 16,13-19
SỐNG ĐỨC TIN CẬY MẾN NOI GƯƠNG HAI TÔNG ĐỒ PHÊ-RÔ
PHAO-LÔ
I. HỌC LỜI
CHÚA
1. TIN MỪNG:
(13) Khi Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê
Phi-líp-phê, Người hỏi các môn đệ rằng: “Người ta nói con Người là ai
?” (14) Các ông thưa: “Kẻ thì nói là ông Gio-an Tẩy Giả, kẻ thì bảo
là ông Ê-li-a, có người lại cho là ông Giê-rê-mi-a hay một trong các vị
ngôn sứ”. (15) Đức Giê-su lại hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai ?”
(16) Ông Si-mon Phê-rô thưa: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng
sống”. (17) Đức Giê-su nói với ông: “Này anh Si-mon con ông Giô-na, Anh
thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều
đó, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. (18) Còn Thầy, Thầy
bảo cho anh biết: Anh là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá. Trên Tảng Đá này,
Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy. Và quyền lực tử thần sẽ không
thắng nổi. (19) Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất,
anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất,
anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”.
2. Ý CHÍNH: HỘI THÁNH ĐƯỢC XÂY TRÊN ĐÁ TẢNG ĐỨC
TIN CỦA PHÊ-RÔ.
Sau khi Si-mon đại diện cho Nhóm
Mười Hai khẳng định Người là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống (15-16),
ông đã được khen là có phúc (17), được đổi tên thành Phê-rô và được
hứa xây Hội Thánh trên nền tảng đức tin mà ông vừa tuyên xưng, tiên
báo Hội Thánh ấy sẽ trường tồn, bất chấp ma quỷ chống phá (18). Sau
cùng Người cũng trao cho ông chìa khóa Nước Trời với quyền cầm buộc
và tháo cởi (19).
3. HỎI ĐÁP VÀ CHÚ THÍCH:
HỎI 1: Khi thay mặt anh em tuyên xưng Đức Giê-su là
“Con Thiên Chúa hằng sống”, phải chăng ông Si-mon đã tin về bản tính
Thiên Chúa của Người ?
ĐÁP:
Có lẽ khi tuyên xưng Đức Giê-su
là “Con Thiên Chúa hằng sống”, Phê-rô vẫn chưa hiểu rõ ý nghĩa của
tước hiệu ông nói. Ông chỉ muốn giải thích ý nghĩa của tước hiệu
Đấng Ki-tô, theo lời ngôn sứ Na-than tuyên sấm về người con sẽ nối
nghiệp vua Đa-vít như sau: “Khi ngày đời của ngươi đã mãn và ngươi đã
nằm xuống với cha ông, Ta sẽ cho dòng dõi ngươi đứng lên kế vị ngươi
một người do chính ngươi sinh ra, và Ta sẽ làm cho vương quyền nó được
vững bền. Chính nó sẽ xây một nhà để tôn kính Danh Ta, và Ta sẽ làm
cho ngai vàng của nó vững bền mãi mãi. Đối với nó, Ta sẽ là Cha.
Đối với Ta, nó sẽ là con” (2 Sm 7,12-14). Lời ấy đã không ứng nghiệm
nơi Sa-lô-mon, con vua Đa-vít. Từ đó, dân Do thái hằng trông mong Đấng
Thiên Sai thuộc dòng dõi vua Đa-vít sẽ đến. Về sau, trong cuộc khải
hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su cũng được dân chúng ca tụng
bằng tước hiệu "Con Vua Đa-vít" này (x. Mt 21,9). Khi tuyên xưng
tước hiệu "Con Thiên Chúa hằng sống", Phê-rô chưa hiểu ý
nghĩa lời ông nói. Sau đó, Đức Giê-su đã cho biết ý nghĩa tước hiệu
này là nói về bản tính Thiên Chúa, qua lời khen ông có phúc vì đã
được Chúa Cha thương mặc khải cho biết sự thật ấy (x Mt 16,17).
HỎI 2: Tại sao Đức Giê-su đổi tên Si-mon thành
Phê-rô ? Việc đổi tên chính xác xảy ra vào lúc nào: Khi vừa gặp mặt
(x Ga 1,42), khi thành lập Nhóm Mười Hai (x Mc 3,16; Lc 6,14) hay sau khi
Phê-rô tuyên xưng đức tin (x Mt 16,18) ?
ĐÁP:
Cũng có thể Đức Giê-su đã đặt
tên Phê-rô cho Si-mon khi vừa gặp mặt (x. Ga 1,42), hay khi thành lập
Nhóm Mười Hai (x. Mc 3,16; Lc 6,14). Tuy nhiên có lẽ việc đổi tên xảy ra
sau lời tuyên xưng đức tin của Si-mon là hợp lý nhất (x. Mt 16,18), vì
sau khi đổi tên, Đức Giê-su đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của ông
trong Hội Thánh: Đức tin của Phê-rô vào Đức Giê-su chính là tảng đá
vững chắc mà trên đó, Người xây dựng Hội Thánh của Người. Ngoài ra Đức
Giê-su còn trao tối thượng quyền cho ông để ông cầm buộc và tháo cởi
(x. Mt 16,18-19). Người cũng cho Phê-rô đứng đầu Nhóm Mười Hai (x Mt
10,2), và hứa sẽ cầu nguyện để ông kiên vững đức tin, hầu chu tòan sứ
mệnh củng cố đức tin cho các anh em (x. Lc 22,32). Cuối cùng, Người còn
trao quyền chăn dắt đoàn chiên Hội Thánh cho ông nữa (x.Ga 21,15-17).
HỎI 3: Một số người cho rằng: Si-mon Phê-rô là một
người đầy khuyết điểm và đã từng phạm tội chối Thầy ba lần, thì
làm sao xứng đáng lãnh đạo Hội Thánh và thi hành quyền tối thượng là
cầm buộc và tháo cởi được ?
ĐÁP:
Từ ngày được Đức Giê-su gọi
theo làm môn đệ, Si-mon đã phạm nhiều sai lầm. Chẳng hạn: Ông bị Thầy
quở trách vì đã suy nghĩ theo kiểu khôn ngoan của loài người (x. Mt
16,23); Bị trách là kẻ hèn tin khi đang đi trên mặt nước (x. Mt 14,31);
Bị Thầy cảnh báo không được dự phần với Thầy, vì đã từ chối không cho
Thầy rửa chân (x. Ga 13,8-10); Nhất là vì quá tự tin vào sức mình nên ông đã
hèn nhát chối Thầy ba lần, dù đã được Thầy cảnh báo trước (x. Mc
14,30.66-72).
Nhưng Si-mon Phê-rô cũng có những
ưu điểm xứng đáng được Đức Giê-su tín nhiệm trao quyền lãnh đạo Hội
Thánh. Chẳng hạn: tại thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, ông đã tuyên xưng đức
tin: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”, nên đã được Chúa đổi
tên thành Phê-rô, và được trao quyền tối thượng cầm buộc và tháo cởi
(x. Mt 16,18-19). Có lần ông được Đức Giê-su hứa sẽ cầu nguyện cho để
luôn kiên vững đức tin, và trao thêm sứ mệnh củng cố đức tin cho các anh
em (x. Lc 22,32). Phê-rô cũng rất nhiệt tình, thường đại diện anh em
trả lời những vấn nạn của Thầy (x. Lc 5,3-10), đại diện Nhóm Mười Hai
tuyên xưng đức tin vào lời dạy về Bánh Thánh Thể, đang khi nhiều môn
đệ khác chán nản rút lui (x. Ga 6,68). Nhờ kiên vững đức tin, nên ông
đã được Đức Giê-su đặt đứng đầu Nhóm Mười Hai (x. Mt 10,2), được đi
trên mặt nước (x Mt 14,28-32), trở thành một trong ba môn đệ thân tín
nhất chứng kiến cuộc hiển dung của Người (x. Mt 17,1), chứng kiến phép
lạ bé gái mới chết được Người cho sống lại (x. Mt 5,37), và nhất là
chứng kiến lúc Thầy hấp hối trong vườn Cây Dầu (x. Mt 26,37).
Tuy có lần sa ngã phạm tội,
nhưng Phê-rô đã lập tức sám hối (x. Mt 26,69-75). Nhờ yêu Chúa nhiều
hơn anh em, nên ông đã được Người tha thứ và trao nhiệm vụ chăn dắt đoàn
chiên (x. Ga 21,15-17). Chính lòng yêu mến Đức Giê-su đã thúc bách
Phê-rô chạy thi với Gio-an ra mồ và đã sớm đạt được đức tin vào mầu nhiệm
phục sinh của Thầy (x. Ga 20,1-9). Phê-rô cũng được Chúa Phục Sinh hiện ra
(x. Lc 24,34), được cùng anh em lãnh nhận ơn Thánh Thần và đi rao giảng
Tin Mừng khắp nơi (x. Cv 2,14-36), có khả năng chữa lành nhiều bệnh nhân
(x. Cv 9,33-35.40-41), chủ tọa công nghị Giê-ru-sa-lem năm 49 (x. Cv
15,5-29). Cuối cùng ông đã can đảm quay vào thành Rô-ma để bị bắt và
chịu khổ hình thập giá, dưới thời hoàng đế Nê-rô (năm 64-67). Cái
chết của Phê-rô chứng tỏ lòng mến Chúa cao độ, và nêu gương đức tin
vững như đá tảng, để các tín hữu chúng ta học tập noi theo.
II. SỐNG LỜI CHÚA:
1. LỜI CHÚA: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: Anh
là Phê-rô, nghĩa là Tảng Đá, trên Tảng Đá này, Thầy sẽ xây Hội
Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ
trao cho anh chìa khóa Nước Trời. Dưới đất, anh cầm buộc điều gì,
trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy. Dưới đất, anh tháo cởi điều gì,
trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy” (Mt 16,18-19).
2. CÂU CHUYỆN:
1) SỨC MẠNH CỦA TÌNH YÊU TRONG VIỆC BIẾN ĐỔI LÒNG NGƯỜI :
Nữ tu Antoinette được bề trên sai
đến phục vụ tại một bệnh viện lớn. Tại đây có một ông già cực kỳ khó tính. Tiếp
xúc với ai ông cũng nạt nộ la mắng. nhất là khi gặp chuyện trái ý, ông lại to
tiếng ầm ĩ khiến mọi người chung quanh đều khó chịu xa lánh.
Ngày nọ, khi đang mải mê làm việc
giúp các bệnh nhân khác, nữ tu Antoinette nghe thấy tiếng hét lớn của ông già khó
tính: “Mau mau mang ra đây cho tôi một quả trứng luộc". Các y tá khác đều
lảng tránh sang phòng bên, riêng nữ tu Antoinette đã mau mắn đến nhà bếp đem
quả trứng đến cho ông già này.
- Sao trứng chưa chín mà đã đem cho
tôi hả? Bộ muốn tôi đau bụng chết sao? Ông lão khó tính cau có trách mắng. Nữ
tu Antoinette không đáp lại mà đem trứng xuống bếp luộc lại.
- Trứng gì mà luộc chín quá vậy? Sao
lại làm ăn vô ý vô tứ như vậy hả ?
Antoinette chẳng biết phải làm gì để
chiều ý ông lão. Chị liền đi lấy một cái bếp lò đến kê bên giường và trao cho
ông già khó tính một trái trứng để luộc cho vừa ý. Thấy thế ông ta liền nổi
nóng đạp đổ bếp lò, quăng quả trứng kia xuống nền gạch và lớn tiếng: "Cô
không biết tôi là bệnh nhân sao? Bệnh nhân mà lại phải tự luộc trứng hả?"
Nữ tu Antoinette không nói nửa lời.
Chị im lặng đi lấy chổi và cây lau nhà đến quét dọn và lau sạch sàn nhà… Lát
sau, chị đem đến cho lão già khó tính một trái trứng khác và nói: "Ông cố
gắng dùng thử trứng này, tôi đã luộc vừa chín tới thôi?" Bất giác, ông
lính già rùng mình cảm động, nói lí nhí trong miệng: "Tôi thật có lỗi vì
đã vô lý quát mắng cô. Giờ đây tôi sẽ ăn quả trứng này cũng để cám ơn lòng tốt
của cô !"
Tình yêu có sức biến đổi lạ lùng hơn
bất cứ một sự biến đổi lạ kỳ nào, nhất là nó có khả năng biến đổi cả lòng những
con người độc ác nữa. Ước gì chúng ta biết noi gương theo Thầy Chí Thánh Giê-su
luôn nhìn thấy những điều tốt đẹp nơi con người và luôn hy vọng vào những người
đang lầm lạc trong cuộc đời này để dùng tình yêu biến đổi cảm hoá họ.
2) PHẢI LÀM GÌ ĐỂ NÊN GIỐNG CHÚA GIÊ-SU
?
Ngày xưa, một ông vua nước Hy
Lạp tổ chức một cuộc thi làm tượng ảnh nghệ thuật: các nghệ nhân
sẽ tạc tượng hoặc làm tranh tượng về chân dung của nhà vua. Vua hứa
sẽ ban phần thưởng lớn cho những tác phẩm giống ngài nhất. Nghe thông
báo, các nghệ nhân từ khắp các nước chung quanh đã ùn ùn kép đến Hy
Lạp xin vào hoàng cung ứng thí. Nghệ nhân Ấn-độ thì mang theo dụng cụ
để chạm trổ đồ kim hoàn vàng bạc và các loại ngọc trai quý giá.
Nghệ nhân Ai Cập thì mang theo đồ nghề đục đẽo đá quý và một khối đá
cẩm thạch rất đẹp. Ai cũng quyết tâm dành được giải thưởng của nhà vua.
Riêng nghệ nhân nước chủ nhà Hy Lạp chỉ đến ứng thí với bộ đồ gọt
dũa đánh bóng đơn giản.
Mỗi đoàn dự thi được ban tổ
chức bố trí chỗ ở và làm việc tại một phòng trong khu hoàng cung.
Tới ngày thi, nhà vua ra lệnh mỗi đoàn phải hoàn thành tác phẩm
trong thời gian một tuần lễ. Thế là các nghệ nhân vội vàng bắt tay
vào việc. Họ đục đẽo, chà sát, đánh bóng để khắc họa chân dung nhà
vua Hy Lạp cho giống như người thật. Khi một tuần trôi qua, nhà vua
truyền đem các tác phẩm đến trưng bày tại đại sảnh lớn trong hoàng
cung để nhà vua và bá quan trong triều đến chấm điểm. Nhà vua hết sức
hài lòng, khi chiêm ngưỡng các tác phẩm dự thi họa lại chân dung của
mình, do các nghệ nhân Ấn Độ, Ai Cập và nhiều nước khác sáng tác. Mỗi
bức tượng, tranh tượng hay phù điêu đều có những đường nét tinh vi
sắc sảo, nhìn giống hệt khuôn mặt của ngài. Các tác phẩm ấy được
tạc vẽ từ đất nung, từ đá cẩm thạch, hay các loại vàng bạc quý kim
khác. Cuối cùng khi đến chỗ trưng bày của các nghệ nhân Hy Lạp thì nhà
vua và bá quan rất ngạc nhiên vì không thấy bất cứ bức tượng hay tranh
tượng nào được trưng bày, mà chỉ thấy một phiến đá cẩm thạch trắng,
được các nghệ nhân đánh bóng. Nhà vua liền hỏi tác phẩm đâu, thì
một người đã đưa ngài đến đứng trước phiến đá và chỉ vào chân dung
của ngài hiện ra trong đó. Nhìn thấy hình ảnh trung thực của mình,
nhà vua đã hiểu ra và hết sức cảm động. Ngài nhận xét các bức
tranh hay tượng khác, dù có giống ngài nhưng chúng không sống động và
trung thực bằng hình ảnh được phản chiếu từ chính con người thật của
ngài. Nhà vua đã chấm cho tác phẩm của đoàn nghệ nhân Hy Lạp hạng
nhất. Còn các tác phẩm khác cũng được xếp hạng và đều có phần
thưởng tương xứng với giá trị của chúng. Sau đó, tất cả các tác
phẩm đều được trưng bày tại viện bảo tàng quốc gia cho dân chúng tự
do đến chiêm ngưỡng.
3. SUY NIỆM:
Hôm nay, Hội Thánh mừng kính 2 vị Tông đồ là Phê-rô
và Phaolô chung trong một ngày lễ. Chúng ta cùng suy nghĩ về cuộc đời của hai Tông
đồ trụ cột này của Hội Thánh để thấy được sức mạnh tình thương của Thiên Chúa
trong việc biến đổi lòng người.
1) Về ơn kêu gọi của hai Tông đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Phê-rô làm nghề đánh cá tại làng Bet-sai-đa, gần hồ Ga-li-lê. Phê-rô tên thật là Si-mon, có em là
An-rê. Khi An-rê được thầy là Gio-an Bao-ti-xi-ta giới thiệu về Đức Giê-su thì "Trước hết ông gặp anh mình là Si-mon và nói : Chúng tôi đã gặp
được Đấng Mê-si-a. Rồi ông dẫn anh mình đến gặp Đức Giê-su. Đức Giê-su nhìn
Phê-rô và nói: "Anh là Si-mon, con ông Gio-na, anh sẽ được gọi là Kê-pha
nghĩa là Đá" (Ga
1,41-42). Sau đó ít ngày, đang lúc Đức Giê-su đi trên bờ hồ Gê-nê-sa-rét, có
đám đông dân chúng đi theo. Người thấy ông Si-mon đang giặt lưới dưới thuyền,
nên Người đã xuống thuyền ấy mà giảng dạy cho dân chúng đang ngồi trên bờ hồ.
Giảng xong, Người bảo Si-mon chèo thuyền ra giữa hồ đánh cá. Mặc dù suốt đêm
vất vả mà không bắt được con nào, nhưng Si-mon vẫn vâng lời Thầy: Ông chèo
thuyền ra khơi thả lưới và đã bắt được mẻ cá lạ lùng. Trước sự lạ ấy, Si-mon tỏ
vẻ kính sợ, nhưng Người bảo ông:
"Đừng sợ, từ nay anh sẽ là kẻ chài lưới người ta. Thế là ông đưa thuyền
vào bờ rồi dứt khoát bỏ nghề chài lưới để theo làm môn đệ Người” (Lc.5,10-11).
- Phao-lô tên thật là Sao-lê quê thành Tác-sô,
miền Ki-li-ki-a. Theo học với vị thầy nổi tiếng là Ga-ma-li-en. Sao-lê giữ luật
Mô-sê nghiêm chỉnh. Tuy là người Do Thái nhưng ông cũng có quốc tịch Ro-ma.
Sao-lê rất sùng đạo Do thái nên rất ghét đạo mới của Đức Giê-su. Nghe tin ở
Đa-mát có nhiều tín hữu Ki-tô, Sao-lê đã xin lệnh của thượng tế, đem quân đến
thành Đa-mát bắt các tín hữu mang về Giê-ru-sa-lem trị tội. Nhưng khi đến cửa
thành, Sao-lê đã bị một làn chớp sáng đánh trúng bị té xuống ngựa, mắt ông bị
loà không nhìn thấy gì. Ông nghe thấy tiếng Chúa Giê-su hiện ra hạch tội và ông
đã khuất phuc. Rồi ông được một người trong thành là A-na-ni-a đón vào thành và
dạy đạo. Sau khi được chịu phép rửa tội, Sao-lê được sáng mắt và đổi tên thành
Phao-lô. Ông còn được Chúa Phục Sinh hiện ra dạy dỗ riêng và trao sứ mệnh làm
tông đồ rao giảng Tin Mừng (x. TĐCV 22,3-21). Thế là từ một người cuồng tín bắt
đạo, Phao-lô đã được ơn biến đổi thành Tông đồ nhiệt tình rao giảng Tin Mừng
cho dân ngoại.
2) Tính cách của hai vị Tông đồ
Phê-rô và Phao-lô:
- Tông đồ Phê-rô khi đi theo Đức Giê-su gần ba năm,
thường đại diện Nhóm 12 trả lời Thầy. Khi Người hỏi: “Người ta nói Thầy là ai?”
Phê-rô đã đại diện anh em thưa rằng: "Thầy là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa
hằng sống". Có lần Phê-rô ngăn cản Thầy đừng đi Giê-ru-sa-lem chịu khổ
nạn, và ông đã bị Thầy nặng lời quở trách. Phê-rô đã được các tác giả Tân Ước
đề cập tới 195 lần. Ông có lòng nhiệt tình yêu mến Thầy. Khi nghe Đức Giê-su
cho biết các môn đệ sắp hèn nhát bỏ Thầy chạy trốn, Ông đã thề hứa : “Dù moi người bỏ thầy, còn Phê-rô sẽ không
bao giờ". Tuy nhiên, ông cũng là một người yếu đuối, nên đã
phạm tội chối Thầy 3 lần: "Tôi không biết ông Giê-su là ai".
Đến khi nghe tiếng gà gáy và Đức Giê-su bị trói đi ngang qua chỗ ông và
Người nhìn ông, thì ông đã xúc động ra ngoài khóc lóc thảm thiết. Sau khi sống
lại, Chúa Giê-su đã hiện ra với Si-mon và hỏi ông ba lần về lòng mến và cả ba
lần ông đều tuyên xưng: "Thưa Thầy, có. Thầy biết con mến Thầy”. Mỗi lần
như thế, Chúa lại trao cho ông trách nhiệm chăn dắt đàn chiên của Người (x. Ga
21,15-19).
b) Tông đồ Phao-lô sau khi trở lại, đã nhiệt tình thi
hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ông đã đi khắp vùng Đế Quốc Rô-ma rao giảng cho
dân ngoại tin Chúa, chấp nhận mọi gian nan chống đối gặp phải: bị bắt bớ xét
xử, bị đánh đòn, đắm tầu, đói rét, ở trần… vì Danh Chúa. Nhờ sự soi dẫn của
Chúa Thánh Thần, Phao-lô đã viết nhiều bức thư để giáo huấn các tín hữu sống
đức tin, dạy họ chừa bỏ các tội lỗi và thói hư để sống theo gương mẫu và lời
dạy của Chúa Giê-su. Phao-lô còn nêu gương can đảm làm chứng cho Chúa như ông
đã viết: “Họ là người phục vụ Đức Ki-tô ư? Tôi nói như người điên: Tôi còn hơn
họ nữa! Hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn, bao
lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do thái đánh bốn mươi roi bớt một. Ba lần
bị đánh đòn, một lần bị ném đá, ba lần bị đắm tàu, một đêm một ngày lênh đênh
giữa biển khơi… (2 Cr 11,23-25…)
3) Về lòng mến Chúa của hai vị Tông
đồ Phê-rô và Phao-lô:
- Tông đồ Phê-rô: Theo sách Công vụ Tông đồ, vào lễ
Ngũ Tuần, sau khi đón nhận đầy ơn Thánh Thần, Phê-rô đã cùng các Tông đồ bắt
đầu thi hành sứ vụ loan báo Tin Mừng. Ông đã giảng một bài đầu tiên tại
Giê-ru-sa-lem. Sau bài giảng nhờ ơn Thánh Thần tác động, đã có 3 ngàn người xin
tòng giáo. Sau đó Phê-rô cùng Nhóm 11 chọn ông Mat-thi-a thế chỗ cho Giu-đa
phản bội. Ông cũng được Thánh Thần ban ơn làm nhiều phép lạ cứu nhân độ thế kèm
theo lời giảng. Ông đã chữa cho một người què tại cửa Đền thờ, và đón nhận dân
ngoại vào Hội Thánh. Người ta tin rằng chỉ cần cái bóng của ông lướt qua bệnh
nhân cũng đủ chữa lành cho họ. Phê-rô và các Tông đồ trong Nhóm 12 ưu tiên loan
báo Tin Mừng cho dân Do thái. Ông đã bị các đầu mục dân Do thái bắt bớ xét hỏi
nhiều lần và cấm rao giảng Danh Đức Giê-su. Nhưng ông đã tuyên bố trước Thượng
Hội Đồng rằng: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm… Về những sự
kiện đó, chúng tôi xin làm chứng cùng với Thánh Thần” (Cv 5,29-32). Vào lúc
cuối đời, khi đang ở Rô-ma và có nguy cơ bị bắt, Phê-rô đã nghe lời các tín hữu
cải trang và đã trốn thoát được ra ngoài thành Rô-ma để tiếp tục lãnh đạo Hội
Thánh. Nhưng rồi ông đã gặp Đức Giê-su đang vác thánh giá đi vào trong thành.
Ông hỏi Người: “Quo vadis ?” (Thầy đi đâu?). Chúa trả lời: “Ta vào thành Rô-ma
để chịu đóng đanh một lần nữa” rồi Chúa biến mất. Phê-rô hiểu ý Chúa muốn ông ở
lại Rô-ma để làm chứng cho Chúa giữa các tín hữu, nên ông quyết định quay vào
trong thành. Rồi Phê-rô bị bắt và bị kết án tử hình thập giá vào năm 65 dưới
thời hoàng đế Nê-rông. Khi chịu đóng đinh, để tỏ lòng tôn kính Chúa Giê-su, ông
xin được đóng đinh và quay ngược đầu xuống đất. Ngày nay một ngôi Đền thờ Thánh
Phê-rô to lớn trong thành Rô-ma được xây dựng, trong đó có chứa mộ phần của
thánh Phê-rô. Trong thời gian giảng đạo ở Rô-ma, thánh Phê-rô đã viết 2 bức thư
cho các tín hữu miền Tiểu Á đang chịu bách hại, khuyên dạy họ hãy can đảm sống
đức tin bằng việc hiệp nhất yêu thương nhau, vâng phục các chủ chăn, đoạn tuyệt
tội lỗi và chờ đợi ngày Chúa quang lâm sắp đến.
- Tông đồ Phao-lô: Phao-lô thực là dụng cụ Chúa dùng
để đưa nhiều người về với Chúa. Ông là một người trung thành, can đảm, thẳng
thắn… Là cầu nối kết giữa dân Do thái và dân ngoại, giữa Cựu ước và Tân ước.
Nhờ Phao-lô mà dân ngoại trong đó có chúng ta hôm nay không phải chịu nghi thức
cắt bì của đạo Do Thái và không phải mang “ách Luật Mô-sê” như dân Do thái xưa.
Từ khi gặp Chúa và theo làm Tông đồ của Người, Phao-lô đã nhiệt tình yêu mến
Chúa. Chẳng hạn ông viết : “Đối với tôi sống là Đức Ki-tô” (Pl 1,21) “Tôi coi mọi sự như
phân tro, để chỉ mong được lời lãi Tình yêu Chúa Ki-tô" (Pl 3,8).- "Ai có thể
tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn
khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo ? … Tôi tin chắc rằng: cho dầu là
sự chết hay sự sống, thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai,
hoặc bất cứ sức mạnh nào, chiều cao hay vực thẳm, hay bất cứ một loài thọ tạo
nào khác, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể
hiện nơi Đức Ki-tô Giê-su, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39). "Tôi sống
nhưng không phải là tôi, mà là Đức Ki-tô sống trong tôi" (Gl 2,20).
Cuối cùng, trong thời kỳ người Rô-ma bách hại đạo Công giáo, Phao-lô đã bị bắt,
và bị chém đầu ngoài thành Rôma vào năm 67.
4) Sống “hiệp nhất” để làm chứng cho
Chúa noi gương hai vị Phê-rô và Phao-lô:
- Hiệp nhất trong đức tin: Hai vị Tông đồ đã hiệp nhất một
lòng một ý trong sứ mệnh rao giảng Tin Mừng. Mặc dù còn có nhiều khác biệt về
bản thân, tính tình, về ơn gọi theo Chúa, về xu hướng truyền giáo… nhưng cả hai
đã tạo nên một sự hiệp nhất trong đa dạng, qua việc cùng trở thành nền tảng xây
dựng toà nhà Hội Thánh, sẵn sàng chết vì Danh Chúa. Hai vị đã được Hội Thánh
tôn vinh trong một ngày đại lễ. Các ngài đã trở nên biểu tượng của sự hiệp nhất
trong đa dạng của Hội Thánh: “Khác nhau trong điều phụ, hiệp nhất trong điều
chính, yêu thương trong tất cả”. Đó chính là khuôn vàng thước ngọc cho các tín
hữu chúng ta noi theo.
- Hiệp nhất trong lòng mến: Ngày nay muốn trở nên tông đồ
của Chúa Giê-su, các tín hữu chúng ta phải có lòng mến Chúa noi gương hai
vị Tông đồ. Nhờ lòng mến Chúa thôi thúc, chúng ta sẽ được ơn Chúa thanh luyện
khỏi những đam mê, thói hư, các vết nhơ tội lỗi. Nhờ siêng năng nghe Lời
Chúa và tham dự thánh lễ rước lễ mỗi ngày, xét mình mỗi tối trước khi
đi ngủ, học tập theo Chúa Giê-su… chúng ta cũng sẽ nhìn tha nhân bằng ánh
mắt bao dung nhân hậu, ăn nói điềm đạm, vui vẻ chân thành, ứng xử hiền
hòa và khiêm tốn phục vụ … Nhờ đó chúng ta sẽ nên những tông đồ giáo dân
nhiệt thành làm chứng cho Chúa, noi gương hai vị Tông đồ Phê-rô và Phao-lô.
4. THẢO LUẬN:
Đối với bạn, Đức Giê-su là ai ?
(Là một ngôn sứ, để xin Người cầu bầu với
Chúa Cha cho ta; hay là một thần
tượng để ta chiêm ngưỡng thán phục; hay chính là Đấng Thiên Sai Con Thiên Chúa, để ta tin theo và sẵn sàng bỏ
mọi sự theo làm môn đệ Người, sẵn sàng vác thập giá là đón nhận các
đau khổ gặp phải, kết hiệp với sự đau khổ của Người trên cây thập giá để
góp phần cứu rỗi tha nhân ?)
5. NGUYỆN CẦU:
LẠY CHÚA
GIÊ-SU. Tòa nhà Hội Thánh sau hai ngàn năm đến nay vẫn đang tiếp tục
được xây dựng những chỗ còn dang dở. Xin Chúa giúp mỗi tín hữu chúng
con tích cực góp phần xây dựng để ngôi nhà Hội Thánh sớm hoàn
thành. Xin cho chúng con luôn sống yêu thương hòa thuận để gia đình và
Giáo xứ chúng con trở thành một cộng đoàn yêu thương hiệp nhất và
bình an. Nhờ đó nhiều người sẽ nhận biết tin thờ Chúa và sau này
cùng được chia sẻ niềm vui ơn cứu độ với chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ
MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON
LM ĐAN VINH
- HHTM