“Khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”

Suy niệm đầu Năm QUÝ TỴ

 

Trước ngưỡng cửa năm mới Quý Tỵ, không những báo chí, mà hầu như ai ai cũng nói về rắn: rắn trong những mẩu chuyện hài hước dí dỏm dễ thương; rắn, nghiêm túc hơn, dưới góc độ khoa học, y học, văn học, kinh tế, … và cả góc độ tôn giáo nữa. Là Kitô hữu, tôi cũng tìm thấy trong Kinh Thánh một số đọan đề cập tới rắn. Nhưng trong bài suy niệm này, tôi ưu tiên tập trung vào ý nghĩa biểu tượng của RẮN trong linh đạo Chúa Giêsu.

 

1. Chính Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ: “Này Thầy sai anh em đi như chiên ở giữa bầy sói (nửa a của Mt 10, 16). Vậy anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu (nửa  b của Mt 10, 16). Lu-ca cũng ghi lại nửa a của câu Phúc Âm Mat-thêu về chiên và sói (Lc 10, 3), nhưng chỉ Mát-thêu ghi thêm nửa b về rắn và bồ câu. Như vậy, một mình Mát-thêu liên kết hai cặp loài vật sói-chiên và rắn-bồ câu trong cùng một câu nói của Chúa Giêsu, và cấu trúc câu văn mang dáng dấp như một sự song đối giữa hai vế (parallélisme), nghĩa là hai vế vừa song song, vừa đối ứng với nhau: Cặp biểu tượng rắn-bồ câu đối ứng với cặp biểu tượng sói-chiên. Và Mat-thêu ghi rõ chữ “vậy”, có vẻ như để diễn tả mối tương quan nhân-quả (theo nghĩa luận lý học và văn phạm, chứ không phải theo quan niệm triết học của Ấn giáo và Phật giáo về “Karma”, “nghiệp báo”) giữa nửa a và nửa b của câu nói. Chắc chắn có tương quan nhân quả trong suy nghĩ của Chúa Giêsu, theo một nghĩa rất “logíc”: Thầy sai anh em đi như chiên ở giữa bầy sói, nên anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu. Nhưng chúng ta không được phép căn cứ vào dáng vẻ song đối ấy để nhanh chóng kết luận rằng: rắn mang ý nghĩa biểu tượng giống như sói; và bồ câu giống như chiên, theo nghĩa: vì sói và chiên xung khắc, không đội trời chung, loại trừ nhau hoặc xa lánh nhau, nên rắn và bồ câu cũng không thể liên kết với nhau để cùng tồn tại và chung sống hòa bình. Chúa Giêsu hiểu hai cặp biểu tượng ấy theo cách độc đáo của Người. Chúng ta cần tìm hiểu cả hai cặp, tức ý nghĩa biểu tượng của bốn con vật: sói-chiên-rắn-bồ câu, dựa vào chính những lời Người dạy, kèm theo những lời quảng diễn của các Tông đồ.

 

2. Trước tiên, về cặp “sói-chiên”:

Trong giáo huấn của Chúa Giêsu, sói là biểu tượng của những ngôn sứ giả: “Anh em hãy coi chừng các ngôn sứ giả, họ đội lốt chiên mà đến với anh em; nhưng bên trong, họ là sói dữ tham mồi. Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7, 15-16). Lời cảnh báo này của Chúa được thánh Phaolô ứng dụng vào tình hình thực tế của các giáo đoàn do ngài thành lập tại vùng Tiểu Á. Ngài nói với các kỳ mục trong Hội Thánh Ê-phê-xô trước khi chia tay họ như sau: “Tôi biết rằng khi tôi đi rồi, sẽ có những sói dữ vào giữa anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, nhằm lôi kéo các môn đệ theo chúng…”(Cv 20, 29-30).

Trong thiên nhiên, sói luôn dữ tợn và nguy hiểm. Nó tìm mọi cách để tấn công và thủ tiêu  chiên. Nhưng thánh Phaolô cũng như Chúa Giêsu đều dùng con sói như biểu tượng để diễn tả bản năng và xu hướng độc ác, tham lam trong con người. Theo nghĩa đó thì hầu như ai ai cũng có ít nhiều chất sói trong mình, kể cả những người vốn thường được coi là hiền lành như chiên; cũng như  những người vốn thường độc ác, tham lam như sói, vẫn có thể còn mang chút tàn tich của lòng nhân ái dính lại nơi lương tâm, phản chiếu hình ảnh của Thiên Chúa được khắc ghi trong họ (x. St 1, 26-27). Chúa Giêsu không lên án hoặc loại trừ ai một cách tuyệt đối và dứt khoát. Lời cảnh báo của Chúa luôn bao hàm một lời mời gọi mọi người “hãy hoán cải và tin vào Phúc Âm” (Mc 1, 15), vì Chúa ý thức rõ sứ vụ của mình khi được Chúa Cha thánh hiến và sai đến thế gian (x. Ga 10, 36), là: “không phải để kêu gọi người công chính – thực ra câu thánh vịnh sau đây vẫn đúng cho hầu hết mọi người: “…lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai…!”[Tv 51(50), 7] -- , nhưng để kêu gọi người tội lỗi (x. Mc 2, 17 // Mt 9, 13), và khuyên họ hối cải (x. Lc 5, 32). Người khuyên họ hối cải một cách rõ ràng và cụ thể hơn nữa: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá của mình mỗi ngày mà đi theo tôi“ (x. Lc 9, 23), và bằng cách đó, trở thành môn đệ của Người, với khả năng sinh nhiều hoa trái (x. Ga 15, 8) – những hoa thơm trái ngọt cho bản thân và cho nhiều người khác hưởng nhờ --, và được sống, và sống dồi dào nữa (x. Ga 10, 10). Vì Chúa đã dạy: “Hãy yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5, 44 // Lc 6, 27-28. 35), nên, khi sai các môn đệ đi như chiên ở giữa bầy sói, Chúa không thể muốn hoặc cho phép các ông coi mọi người khác đều là sói, chỉ là sói, để rồi tìm cách xa lánh họ như chiên xa lánh sói, như những kẻ thù địch xa lánh hoặc loại trừ nhau. Chúa chỉ cảnh báo các môn đệ: Hãy tỉnh táo, hãy cảnh giác đối với “những ngôn sứ giả”, mà Người không ngại gọi là “sói dữ tham mồi ”; hãy biện phân hoặc phân định điều tốt, điều xấu, cái đúng, cái sai trong những điều họ nói và làm, dựa trên nguyên tắc “xem quả biết cây”: “Cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt 7, 16). Thánh Phaolô sẽ giải thích: việc phân biệt tốt-xấu, đúng-sai thuộc diện đặc sủng hoặc đoàn sủng phân định các loại tinh thần, tức các loại động lực thúc đẩy con người hành động, do Chúa Thánh Thần ban cho mỗi người, nhằm xây dựng ích chung của cộng đoàn Giáo Hội (x. 1Cr  12, 7. 10c). Việc phân định như thế là một biểu hiện của sự khôn ngoan. Chúa Giêsu chỉ muốn các môn đệ sống và ứng xử cách khôn ngoan, thay vì ghét bỏ và loại trừ những người mang tính chất sói dữ tham mồi, tức những ngôn sứ giả, thường xuất hiện từ trong hàng ngũ Giáo Hội, nhưng lại giảng dạy những điều sai lạc. Tuy phải đề cao cảnh giác, theo lời dạy của Thánh Phao-lô, các môn đệ vẫn không được phép coi những loại người như thế là “thù địch” (x. 2Tx 3, 15), nhưng phải dùng lời khuyên bảo, giúp họ trở thành chiên ngoan.

Chính Chúa Giêsu, trên đường dẫn tới Đa-mát, đã biến đổi con sói dữ khét tiếng là Sao-lô, một nhân vật đã từng tuyên bố không đội trời chung với các Kitô hữu và đang gây kinh hoàng cho họ (x. Cv  9, 1-19), trở nên một con chiên thuần thành, một môn đệ khiêm tốn, một tông đồ Phaolô trung thành của Chúa, và một chủ chiên nhiệt thành, một người anh em, một người mẹ (x. 1Tx  2, 7), một người cha (x. 1Cr 4, 15; 1Tx 2, 11) của các Kitô hữu. Cuộc quay đầu của Sao-lô chẳng phải là một bước nhảy vọt hoàn toàn bất ngờ từ sói dữ sang chiên lành để trở nên chủ chiên nhiệt thành đó sao? Cũng thế, công cuộc Phúc âm hóa mỗi cá nhân và muôn dân luôn bao gồm một nội dung kép, đó là: tạo ra những môn đệ cho Chúa Giêsu (x. Mt 28, 18-20) và chuyển hóa chất sói trong mỗi người thành chất chiên, nghĩa là, theo cách diễn đạt của chính thánh Phaolô, để cho Tinh Thần Chúa thuần hóa tính xác thịt (x. Gl 5, 19-25), biến thân xác con người thành đền thờ của Chúa Thánh Thần (x. 1Cr 6, 19), thành lễ  tế sống động, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa (x. Rm 12, 1), và qua việc rao giảng Tin Mừng được thánh Phaolô quan niệm như một hành vi tế tự, biến các dân ngoại thành của lễ dâng lên Thiên Chúa (x. Rm 15, 16).

Thánh Phanxicô Assisi, được ơn trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô cách trọn vẹn đến mức được mang năm Dấu Thánh của Chúa trên thân xác mình, đã trở thành  như khí cụ bình an của Chúa”, để thuần hóa con sói dữ -- một con sói thật -- một thời gây kinh hoàng cho dân thành Gub-bi-ô vùng Um-bri-a, hòa giải nó với dân, như quyển sách lừng danh “Fioretti” (“Tiểu Kỳ Hoa” hay “Những Bông Hoa Nhỏ” của Thánh Phanxicô – chương 21 --)  đã kể lại; và vào cuối đời, thánh nhân sáng tác thêm phiên khúc về sự tha thứ, đưa vào Bài Ca Anh Mặt Trời, rồi mời ngài Thị Trưởng Assisi đang bất bình nghiêm trọng với đức Giám Mục đến Tòa Giám mục, nơi một nhóm anh em hèn mọn chuẩn bị truyền đạt sứ điệp của Vị Thánh Hòa Bình. Quyển “Sưu Tập Assisi”, số 84, kể rằng: sau khi nghe sứ điệp của Vị Thánh Nghèo, và nghe anh em hèn mọn hát Bài Ca Anh Mặt Trời với phiên khúc mới thêm vào về sự tha thứ, hai Vị Đại Diện của thế quyền và giáo quyền đã xúc động tột độ và làm hòa với nhau trước mặt mọi người.

Đối với Thánh Phanxicô cũng như đối với Chúa Giêsu, kiến tạo hòa bình và hòa giải, -- diễn đạt bằng ngôn ngữ biều tượng là biến sói thành chiên để chung sống hòa bình với nhau  -- là một khía cạnh không thể thiếu của công cuộc Phúc Âm hóa.

 

3.  Tiếp đến là cặp rắn-bồ câu

Phần suy niệm trên đây về lời cảnh báo của Chúa Giêsu trong nửa đầu của Mt 10, 16 cho thấy: Chúa hiểu biểu tượng sói theo một nghĩa hoàn toàn tiêu cực, trong lúc Người gán cho biểu tượng chiên một ý nghĩa tích cực và tốt đẹp mà thôi. Còn trong nửa sau của Mt 10, 16, tức trong phần lời khuyên, Chúa hiểu cả hai biểu tượng rắn và bồ câu theo một nghĩa tích cực như nhau: “Hãy khôn như rắn VÀ đơn sơ như bồ câu”.

 

3.1. Biểu tượng rắn xuất hiện hai lần trong giáo huấn của Chúa Giêsu. Một lần tại đây, Mt 10, 16b, trong đó Người đánh giá cách trân trọng cái khôn như đặc tính nổi bật của rắn. Lần thứ hai, trong Phúc Âm Gio-an, chính Người tự ví mình như con rắn đồng được Mô-sê giương cao trên một cột gỗ trong sa mạc (x. Ds 21, 4-9), để nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: ai nhìn lên con vật hoặc nhân vật được giương cao trên cây gỗ, mà tin vào Thiên Chúa, thì được chữa lành và được sống, nghĩa là được cứu độ (x. Ga 3, 14-15). Như vậy, con rắn được giương cao trên cây gỗ trở thành biểu tượng của sự chữa lành và sự sống. Người ta không thấy Chúa Giêsu khai thác ý nghĩa tiêu cực của con rắn như sách Sáng Thế đã đề cập (x. St 3) và sách Khải Huyền sẽ triển khai thêm (x. Kh 20). Một cái nhìn tổng hợp về hai khía cạnh khôn ngoan và chữa lành của biểu tượng rắn giúp ta khám phá ra sự phong phú sâu sắc trong giáo huấn của Chúa Giêsu.

- Thật vậy, ở cấp độ thực tế tự nhiên, theo tầm nhìn của Phúc Âm Mat-thêu, con rắn được kể là khôn (tiếng Hy-lạp: phrônimos; La-tinh: prudens), theo nghĩa có sự thông minh thực tiễn, với khả năng thích ứng nhanh chóng và có hiệu quả với từng tình huống. “Con rắn có tài tránh nguy hiểm và luôn luôn giữ cái đầu cho khỏi bị đánh[1].

- Chúa cũng dùng tính từ “khôn” để nói về người xây nhà trên đá (x. Mt 7, 24), tương phản với người ngu dại (môros = stultus) xây nhà trên cát (x. Mt 7, 26). Chúa dùng hai biểu tượng về cách xây nhà để minh họa: thái độ của người nghe lời Chúa mà đem ra thực hành là khôn; thái độ của người nghe lời Chúa mà không đem ra thực hành là ngu dại.

- Ở cấp độ Kitô học của Phúc Âm Gio-an, khi Chúa Giêsu tự ví mình với con rắn đồng được Mô-sê giương cao trên cột gỗ, Người ám chỉ cái chết của mình trên Thập giá, và Người kiện toàn (x. Mt 5, 17) ý nghĩa của biểu tượng rắn trong Cựu Ước, bằng cách thay cây cột gỗ trong sa mạc bằng cây Thập giá trên Đồi Sọ, thay con rắn đồng bằng chính bản thân Người, mà Người hiến tế làm hy lễ vô tì tích cho Thiên Chúa nhờ Thần Khí hằng hữu thúc đẩy (x. Dt  = Hr 9, 14). Cái khôn thực tiễn của con rắn trong đời sống thiên nhiên, hay cái khôn thực tiễn trong đời sống xã hội của người xây nhà trên đá, nay được thánh Gio-an và thánh Phao-lô nâng cấp lên thành “sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa biểu lộ nơi Thập Giá và nơi Đấng Chịu Đóng Đinh (x. 1Cr 1, 18-25, đặc biệt câu 24). Khi được giương cao khỏi mặt đất – tức bị đóng đinh trên Thập giá – Chúa Giêsu xuất hiện như “Đấng Hằng Hữu”, “Đấng Thiên Sai và Ngôn Sứ” với sứ vụ truyền đạt lời Thiên Chúa cho loài người (x. Ga 8, 28), và chính việc chu toàn sứ vụ đó đưa đẩy Người đến cái chết trên Thập Giá, nhưng Thập Giá lại trở thành chiếc thang đưa Người lên vinh quang; và từ trên Thập Giá, Người lôi kéo mọi người lên với mình (x. Ga 12, 32), để cùng với Người, họ cũng đi qua những chặng đường Thập Giá mà vào ánh sáng vinh quang (“per Crucem ad Lucem”) . Trong cái nhìn sâu sắc của thánh Phao-lô và thánh Gio-an, hai nhà thần học lớn nhất của mọi thời, sự khôn ngoan (sophia = sapientia) và sức mạnh (dynamis = virtus) của Thiên Chúa là một mầu nhiệm được thể hiện nơi Thập Giá và nơi Đức Giê-su Ki-tô, Đấng-Chịu-Đóng-Đinh vì loài người chúng ta.

 

Như vậy, lời khuyên “Hãy khôn như rắn”:

- không chỉ có nghĩa đen là biết vận dụng trí thông minh thực tiễn và khả năng thích ứng nhanh chóng và có hiệu quả với từng tình huống, để thoát khỏi hiểm nguy và bảo toàn tính mạng, nghĩa là không để bị đánh giập đầu: đó là cách ứng xử của con rắn;

- hay nghĩa bóng là hành động như người khôn, biết xây nhà trên đá, biết sống trung thực với chính mình và với Thiên Chúa: sau khi nghe lời Chúa thì đem ra thực hành, với xác tín rằng chỉ bằng cách đó lời Chúa mới phát huy hết tác dụng, là biến đổi đời sống con người nên tốt hơn, bớt tính sói để mang thêm tính chiên hơn, có giá trị bền vững hơn, có khả năng xây dựng lợi ích trường tồn của mình và của cộng đồng nhiều hơn. Đúng như Chúa Thánh Thần đã nói về lời Chúa: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” [Tv 119 (118), 105]. Lời Chúa “như thanh gươm hai lưỡi sắc bén” (x. Kh 1, 16); “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người (Dt = Hr 4, 12); nghĩa là lời Chúa có tác dụng thanh luyện, chữa lành và cứu độ; khía cạnh này của lời Chúa dẫn thẳng tới nghĩa thần học của biểu tượng rắn;

- nhưng lời khuyên ấy còn mang thêm nghĩa thần học, xây trên mẫu số chung giữa con rắn đồng và con người Giêsu, là tình trạng cả hai được giương cao trên cây gỗ. Vì được giương cao trên cột gỗ trong sa mạc, nên sự khôn ngoan của con rắn mang thêm khả năng chữa lành đối với những người nhìn lên cao với lòng tin. Còn Chúa Giêsu, khi chấp nhận được giương cao trên cây Thập Giá tại Đồi Sọ, thì trở thành thần dược và lương y chữa lành loài người, như Bài ca thứ tư về Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã tiên báo: “Chính người đã bị đâm vì chúng ta phạm tội, bị nghiền nát vì chúng ta lỗi lầm; người đã chịu sửa trị để chúng ta được bình an, đã phải mang thương tích cho chúng ta được chữa lành “ (Is 53, 5). Nơi Thập Giá, mầu nhiệm sự tự hạ và vâng phục triệt để của Con Thiên Chúa đến mức chấp nhận chết vì yêu thương, quyện chặt với mầu nhiệm sự siêu thăng của Người vào vinh quang bất diệt (x. Pl 2, 6-11). Sự khôn ngoan của Thập Giá có tác dụng chữa lành, tha thứ, hòa giải, và tạo bình an. Chúa Giêsu-Kitô là hiện thân của sự khôn ngoan gắn liền với mầu nhiệm Thấp Giá, thì đồng thời cũng là hiện thân của sự bình an gắn liền với mầu nhiệm Thập Giá ấy, như thánh Phao-lô đã khẳng định: “Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta…; nhờ Thập Giá, Người đã làm cho đôi bên (là dân Do Thái và dân ngoại) được hòa giải với Thiên Chúa trong một thân thể duy nhất; trên Thập Giá, Người đã tiêu diệt sự thù ghét” (Ep  2, 14.16).

 

3.2. Còn biểu tượng bồ câu chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong câu nói của Chúa Giê-su được Mat-thêu ghi lại (Mt 10, 16b). Nhưng bồ câu cũng xuất hiện một lần trong cuộc đời hoạt động công khai của Chúa, lúc Người chịu Phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả tại sông Giô-đan: đó là chính Chúa Giê-su, “khi chịu phép rửa xong, vừa ở dưới nước lên, thì thấy Thần Khí Thiên Chúa đáp xuống như chim bồ câu và ngự trên Người” (Mt 3, 16 // Mc 1, 10 // Lc 3, 22. Riêng Luca ghi rõ: lúc đang cầu nguyện, Chúa Giê-su thấy điều đó). Chắc hẳn chim bồ câu trong thị kiến của Chúa Giê-su có thể giúp chúng ta hiểu ý nghĩa của biểu tượng bồ câu trong câu nói của Người.

- Bồ câu là trường hợp duy nhất trong các loài chim được người Do Thái chọn làm lễ vật dùng trong phụng tự tại Đền Thờ. Và đó là lễ vật của người nghèo, lễ vật mà Đức Maria đã dâng lên Thiên Chúa để làm lễ thanh tẩy cho mình sau khi sinh con (x. Lc 2, 24).

- Người Do Thái cũng quan niệm rằng bồ câu là hiện thân của mọi nhân đức, đặc biệt là biểu tượng của tình yêu -- người thanh niên trong sách Diễm Ca, gọi người yêu của mình là “bồ câu của anh ơi ” (Dc 2,  14; 5, 2…) --  và của mạng sống cả một dân tộc –“Thân phận bồ câu, xin (Chúa) đừng trao cho thú dữ, đừng mãi mãi quên đi mạng sống dân nghèo khổ của Ngài ” [Tv 74 (73), 19].

- Chính trong tầm nhìn tích cực và trân trọng đó, mà Chúa Giêsu, các Tông đồ và thế hệ Kitô hữu tiên khởi đã xem bồ câu như một biểu tượng của Thần Khí Thiên Chúa. Tầm nhìn này cũng có thể bao hàm cả cách hiểu ý nghĩa của chim bồ câu trong câu chuyện con tàu ông Nô-ê, khi nó mang về cho ông một nhành lá ô-liu tươi, chứng tỏ nước lụt đã rút và báo hiệu sự sống sót và bình an cho loài người (x. St 8, 11). Nếu bồ câu ngậm nhành lá o-liu trở thành biểu tượng cho hòa bình, thì sự bình an đó cũng có liên hệ với Chúa Thánh Thần, vì theo thánh Phao-lô, bình an là một trong những hoa quả của Thần Khí, đứng hàng thứ ba, sau bác ái và hoan lạc (x. Gl 5, 22-23).

- Trong Mt 10, 16b, sau khi đề cao cách trân trọng đặc tính “khôn”(phrônimos = prudens) của rắn, Chúa Giê-su chú mục vào đặc tính nổi bật của bồ câu là “akeraios = simplex”. Nghĩa từ nguyên hoặc nghĩa đen của tính từ Hy-lạp và La-tinh này là không pha trộn, là nguyên chất, hoặc thuần nhất; và theo nghĩa bóng, là đơn thuần, đơn sơ, không mang tính chất “hai lòng”, không giả dối, không rơi vào tình trạng”lòng nghĩ một đằng, miệng nói một nẻo”, nhưng hễ “có” thì nói “có”, “không” thì nói “không”, thêm thắt điều gì là do ác quỷ (x. Mt 5, 37). Chính Chúa Giê-su trong Phúc Âm Mat-thêu tuyên bố rằng: chỉ những ai đơn sơ như trẻ nhỏ, có một cõi lòng trong sạch và đôi mắt trong sáng, mới được vào Nước Trời (Mt 18, 3) và nhìn thấy Thiên Chúa (x. Mt 5, 8).

- Đúng là, theo cách hiểu của Chúa Giê-su, có một sự song đối giữa sự khôn ngoan của con rắn và sự đơn sơ của chim bồ câu, mà vẫn không có đối kháng do tương phản hoặc mâu thuẫn, nhưng song hành với nhau và bổ túc cho nhau theo nghĩa tổng hợp.

 

4. Bây giờ là lúc Tổng kết ý nghĩa biểu tượng của bốn con vật được Chúa Giê-su nhắc tới trong câu nói lừng danh tại Mt 10, 16. Các phân tích trên đây cho chúng ta thấy hai điều:

- Một là, chỉ con sói là biểu tượng của sự dữ, sự ác, nên nó không để dấu ấn nào trên con người Đức Giê-su, và do một đặc ân ngoại lệ, cả trên con người Đức Maria Thân Mẫu của Người nữa; còn chiên, rắn và bồ câu là biểu tượng của những giá trị tích cực như: sự hiền lành, sự khôn ngoan, sự đơn sơ, thì có đầy trong Chúa Giêsu và Mẹ Maria Vô Nhiễm, mà mỗi Kitô hữu phải không ngừng mở rộng lòng mình để được lấp đầy.

- Hai là, để hiểu thấu câu nói lừng danh ấy của Chúa, chúng ta phải đọc nó không những trong toàn bộ giáo huấn, mà nhất là trong toàn bộ cuộc sống của Người. Điểm tựa trong cuộc sống (der Sitz im Leben) của câu nói ấy là chính con người Chúa Giê-su. Phúc Âm Mat-thêu giới thiệu Người là vị Thầy làm gương cho các môn đệ “học gương Thầy”, nghĩa là Chúa Giêsu không chỉ là một Thầy Dạy, mà còn là một Chứng Nhân, vì Người dạy những điều mình đã sống, và sống triệt để những điều mình dạy. Tám mối phúc Người dạy chúng ta trong Bài Giảng Trên Núi (x. Mt 5, 3-12) đã tạo nên trước tiên chân dung đích thực của Người, làm mẫu mực cho chúng ta, các môn đệ của Người, họa lại. Người còn  nói một cách trực tiếp và minh nhiên: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường” (Mt 11, 29). Hiền hậu và khiêm nhường chẳng phải là đặc tính của con chiên đó sao? Mà Chúa Giê-su thì đã được Gio-an Tiền Hô giới thiệu là “Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29. 36). Và để xóa bỏ tội trần gian, Chiên Thiên Chúa đã chấp nhận thân phận “con chiên bị đem đi làm thịt” (x. Cv 8, 32 // Is 53, 7)  ), chấp nhận bị giương cao trên Cậy Thập Giá tại Đồi Sọ như con rắn đồng được Mô-sê giương cao trên cột gỗ trong sa mạc.

Như vậy, “khôn như rắn”, với sự khôn ngoan thực tiễn trong đời sống thiên nhiên và xã hội, sẽ đạt được mức độ cao nhất và sâu nhất của sự khôn ngoan thần linh – theo nghĩa thần học -- thể hiện trong mầu nhiệm Thập Giá. Và để đạt được sự khôn ngoan tối cao ấy, mỗi người chúng ta phải sẵn lòng để cho Chúa-Giêsu-Kitô-Chịu-Đóng-Đinh lôi kéo mình lên với Người (x. Ga 12, 32). Đây là quy luật, bao gồm một chương trình sống đầy chiến đấu, vì muốn trở thành môn đệ, thỉ phải từ bỏ mình, vác thập giá của mình từng ngay mà đi theo Chúa (x. Lc 9, 23), nhưng cũng đầy hứa hẹn, bởi lẽ con đường Thập Giá tất yếu dẫn lên vinh quang Phục Sinh.

Và “đơn sơ như bồ câu” là vế thứ hai của lời khuyên, bổ túc cách tất yếu cho vế thứ nhất “khôn như rắn”. Nếu bồ câu là biểu tượng của Thần Khí Thiên Chúa và biểu tượng của hòa bình, thì chính Chúa Giêsu đã được Chúa Cha ban đầy Thần Khí vô ngần vô hạn (x. Ga 3, 34), khi được Chúa Cha thánh hiến và sai đến thế gian (x. Ga 10, 36); chính Thần Khí hằng hữu đã thúc đẩy Chúa Giêsu tự hiến tế trên Thập Giá làm lễ vật vẹn toàn dâng lên Chúa Cha (x. Dt = Hr 9, 14), nghĩa là được giương cao lên khỏi mặt đất như con rắn đồng của ông Mô-sê trong sa mạc, để chữa lành nhân loại và giải hòa mọi người với Thiên Chúa và với nhau (x. Ep 2, 14. 16), qua đó Chúa Giê-su không những trở thành hiện thân của sự khôn ngoan và sức mạnh của Thiên Chúa, mà còn là hiện thân của sự bình an. Và bình an là tên gọi khác của sự đơn sơ, trong sạch và trong sáng. Cả cuộc đời Chúa Giê-su diễn ra dưới sự thúc đẩy của Chúa Thánh Thần, thì mọi tư tưởng, lời nói và hành động của Người cũng là hoa quả của Thấn Khí Thiên Chúa.

Cuối cùng lời khuyên “anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”, có nghĩa là hãy khôn ngoan và đơn sơ như Thầy Giê-su, luôn sống và hành động dưới tác động của Thần Khí (x. Gl 5, 25).

 

Phi Khanh Vương Đình Khởi, ofm

Đàlạt, ngày 09-2-2013, trước ngưỡng cửa Năm Mới Quý Tỵ

 

 



[1] Xem chú thích m tại Mt 10, 16 của Kinh Thánh ấn bản 2011, tr. 2147, bản dịch và chú thích do Nhóm Phiên Dịch Các Giờ Kinh Phụng Vụ thực hiện.


Mục Lục