Bài
viết tiếng Pháp:
Lumière et ténèbres dans
l’Évangile de Jean
Tác
giả: Giu-se LÊ MINH THÔNG, O.P.
Blog: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/
Email:
josleminhthong@gmail.com
Ngày
04 tháng 01 năm 2014.
Nội
dung
I. Ánh sáng
1. Từ ngữ
2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng
3. Đức Giê-su là ánh sáng
II. Bóng tối
1. Từ ngữ
2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng
3. “Skotia” và “skotos” (bóng tối)
III. Kết luận
Bài viết “‘Ánh
sáng’ và ‘bóng tối’ trong Tin Mừng Gio-an” đã có trên Blog http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/ ngày
14 tháng 04 năm 2012. Nhân dịp viết bài này bằng tiếng Pháp “Lumière et
ténèbres dans l’Évangile de Jean”, nội dung bài tiếng Việt đã được viết lại
hoàn toàn với những cập nhật quan trọng về nội dung. Vì thế bài cũ được thay thế bằng bài
viết mới này.
Cặp từ đối lập
“ánh sáng” và “bóng tối” có thể là đề tài quan trọng của Tin Mừng Gio-an. Tương
phản này được trình bày như thế nào và xuất hiện ở đâu trong sách Tin Mừng? Nghĩa
đen và nghĩa biểu tượng của “ánh sáng” và “bóng tối” liên hệ với nhau như thế
nào? “Ánh sáng” và “bóng tối” được dùng để diễn tả những điểm thần học nào? Bài
viết sẽ trả lời những câu hỏi trên qua việc quan sát từ ngữ, tìm hiểu nghĩa
đen, nghĩa biểu tượng và nêu lên những điểm thần học quan trọng của đề tài “ánh
sáng” và “bóng tối” trong Tin Mừng Gio-an.
I.
Ánh sáng
1. Từ ngữ
Tin Mừng thứ tư
dùng 23 lần danh từ Hy Lạp “phôs” (ánh sáng), 1 lần động từ “phôtizô” (1,9) và
2 lần động từ “phainô” (1,5; 5,35). Hai động từ Hy Lạp “phôtizô” và “phainô” có
nghĩa: “Chiếu sáng”, “chiếu soi” (illuminer, briller, luire, apparaître). (Xem mục
từ liên quan đến ánh sáng và bóng tối).
Tất cả 23 lần danh từ “phôs” (ánh sáng) xuất hiện trong Tin Mừng Gio-an tìm
thấy trong 12 chương đầu: 1,4.5.7.8a.8b.9; 3,19a.19b.20a.20b.21; 5,35;
8,12a.12b; 9,5; 11,9.10; 12,35a.35b.36a.36b.36c.46. Phần thứ hai của sách Tin
Mừng (Ga 13–21) không xuất hiện danh từ “phôs” (ánh sáng). Bài viết này chỉ bàn
đến danh từ “phôs” (ánh sáng).
2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng
Trong Tin Mừng thứ
tư, đề tài “ánh sáng” được dùng theo nghĩa đen, nghĩa biểu tượng và nghĩa thần
học. Thông thường nghĩa đen dẫn đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Chẳng
hạn, Đức Giê-su tuyên bố ở Ga 11,9-10: “9 Ban ngày chẳng có mười hai giờ sao? Ai
đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng của thế gian này. 10 Còn ai đi
ban đêm, thì vấp ngã vì ánh sáng không ở trong người ấy.” (Trích dẫn Tin Mừng
Gio-an lấy trong Bản văn Gio-an, TIN MỪNG và BA
THƯ, Hy Lạp – Việt). Từ nghĩa đen: “Đi ban ngày thì không vấp ngã”,
“đi ban đêm, thì vấp ngã” gợi đến nghĩa thần học của
cụm từ: “Thấy ánh sáng của thế gian này” (11,9) và “ánh sáng ở trong người
ấy”. Bao lâu Đức Giê-su còn hiện diện thì con người có thể
“thấy Đức Giê-su” là ánh sáng của thế gian. Người tin vào Đức Giê-su thì “ánh
sáng ở trong người ấy” nên sẽ không vấp ngã. Như thế, danh từ “phôs” (ánh sáng)
ở 11,9-10 vừa có nghĩa đen vừa có nghĩa thần học, nghĩa đen của từ “ánh sáng”
gợi đến nghĩa biểu tượng của từ này.
3. Đức Giê-su là ánh sáng
Một trong những
điểm thần học quan trọng của “ánh sáng” trong Tin Mừng Gio-an là sự đồng hoá
giữa Đức Giê-su và ánh sáng. Có ba lần Đức Giê-su tuyên bố chính Người là ánh
sáng qua kiểu nói đặc trưng: “Tôi là…” (egô eimi…) ở 8,12; 9,5; 12,46.
(1) Lần thứ nhất,
Đức Giê-su nói với những kẻ chống đối Người trong bối cảnh tranh luận ở 8,12:
“Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc chắn sẽ không bước đi
trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống.” Trong lời tuyên bố này,
trước hết Đức Giê-su đồng hoá Người với ánh sáng, sau đó là lời mời gọi bước
theo Đức Giê-su, nghĩa là trở thành môn đệ của Người. Người ấy “chắc chắn sẽ
không bước đi trong bóng tối” nghĩa là bước đi trong ánh sáng, có ánh sáng là
chính Đức Giê-su, soi sáng và hướng dẫn. Như thế người ấy “có ánh sáng của sự
sống”. Ánh sáng–Đức Giê-su là biểu tượng của sự sống, đem lại sự sống và chính
là sự sống. Vì Đức Giê-su là “sự sống lại và là sự sống” (11,25).
(2) Lần thứ hai,
Đức Giê-su nói với các môn đệ ở 9,5: “Bao lâu Thầy còn ở trong thế gian, Thầy
là ánh sáng của thế gian.” Đức Giê-su là ánh sáng của thế gian, nên Người làm
cho người mù từ thuở mới sinh được thấy (Ga 9,1-41). Nhưng sự thấy đích thực
của người mù chỉ được tỏ lộ vào cuối ch. 9. Thực vậy, sau khi bị giới lãnh đạo
Do Thái trục xuất (9,34), anh ta gặp Đức Giê-su và tuyên xưng lòng tin vào
Người: “Tôi tin, thưa Ngài” (9,38). Chỉ lúc đó anh mù mới thực sự sáng mắt theo
nghĩa thần học. Như thế, theo Tin Mừng Gio-an, “thấy thực sự” đồng nghĩa với
“tin vào Đức Giê-su”.
(3) Lần thứ ba,
Đức Giê-su vừa đồng hóa Người với ánh sáng, vừa nối kết với hành động “tin”.
Trong phần tóm kết Sách Các dấu lạ (Ga 1–12), Đức Giê-su tuyên bố ở 12,46: “Tôi
là ánh sáng đến trong thế gian, để bất cứ ai tin vào Tôi thì không ở lại trong
bóng tối.” Câu này có hai yếu tố mới so với tuyên bố của Đức Giê-su ở 8,12.
Thực vậy, ở 8,12 Đức Giê-su mời gọi “theo” Đức Giê-su để không “bước đi” trong
bóng tối. Ở 12,46, Đức Giê-su dùng hai động từ khác: “tin” và “ở lại”. Bất cứ
ai tin vào Đức Giê-su thì không “ở lại” trong bóng tối. Như thế, “theo” Đức
Giê-su có nghĩa là “tin” vào Người, còn “bước đi” trong bóng tối và “ở lại”
trong bóng tối, nghĩa là “thuộc về” bóng tối. Người ấy không có ánh sáng của sự
sống ở nơi mình và sẽ hư mất.
Tóm lại, trong cả
ba trường hợp, sự đồng hoá giữa Đức Giê-su và ánh sáng đều bao hàm lời mời gọi,
minh nhiên hay mặc nhiên, tin vào Đức Giê-su. Ai tin vào Người thì có ánh sáng
và không bị vấp ngã (8,12), thực sự thấy ánh sáng (9,5) và không ở lại trong
bóng tối (12,46).
II.
Bóng tối
1. Từ ngữ
Tin Mừng thứ tư
dùng hai danh từ Hy Lạp: “skotia” và “skotos” để chỉ “bóng tối”, “sự tối tăm”,
“đêm tối”. Từ “skotia” xuất hiện 8 lần ở 1,5a.5b; 6,17; 8,12; 12,35a.35b.46;
20,1. Từ “skotos” chỉ xuất hiện 1 lần ở 3,19. Từ “skotos” được dùng nhiều hơn
trong Tin Mừng Nhất Lãm (Mt: 7 lần; Mc: 1 lần; Lc: 4 lần).
Trong Tin Mừng
Gio-an, đề tài “bóng tối” thường đối lập với “ánh sáng”. Có hai nơi “ánh sáng”
không đối lập với “bóng tối”. Lần thứ nhất sau dấu lạ “bánh hóa nhiều”, các môn
đệ xuống thuyền vào lúc: “Trời đã tối (skotia) và Đức Giê-su chưa đến với các
ông” (6,17). Lần thứ hai xảy ra “vào ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ri-a Mác-đa-la
đi đến mộ lúc sáng sớm, khi trời còn tối (skotia)” (20,1).
Ngoài hai nơi
trên, ở tất cả những nơi khác (năm chỗ), “bóng tối” (skotia, skotos) đối lập
với “ánh sáng”: 1,5; 3,19; 8,12; 12,35 và 12,46. Cuộc chiến giữa “ánh sáng” và
“bóng tối” đã được nói đến trong lời tựa sách Tin Mừng: “Ánh sáng chiếu soi
trong bóng tối (skotia), và bóng tối (skotia) đã không lấn át được ánh sáng”
(1,5), sau đó được triển khai trong sứ vụ của Đức Giê-su, bắt đầu ở 3,19-21:
“19 Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã yêu mến bóng tối
(skotos) hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa. 20 Vì mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh
sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách. 21 Nhưng kẻ làm sự thậtthì đến với ánh sáng để các việc của
người ấy được bày tỏ ra là đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” Đối lập “ánh
sáng – bóng tối” sẽ xuất hiện trở lại ở 8,12; 12,35 và 12,46.
2. Nghĩa đen và nghĩa biểu tượng
Cũng như “ánh
sáng”, danh từ “bóng tối” (skotia) trong Tin Mừng Gio-an vừa có nghĩa đen, vừa
có nghĩa thần học. Thông thường, nghĩa đen gợi đến nghĩa biểu tượng. Chẳng hạn,
“skotia” (bóng tối) ở 1,5 là chủ từ của động từ Hy Lạp “katalambanô” (lấn át,
nắm bắt), vì thế “bóng tối” ở đây nói đến con người và quyền lực đen tối: “Ánh
sáng chiếu soi trong bóng tối (skotia), và bóng tối (skotia) đã không lấn át
(katelaben) được ánh sáng” (1,5).
Ở 6,17, từ
“skotia” (bóng tối) có nghĩa đen: “Trời đã tối”, tuy nhiên những gợi ý quan
trọng trong trình thuật cho phép hiểu “bóng tối” ở 6,17 theo nghĩa biểu tượng.
Người thuật chuyện kể ở 6,16-18: “16 Chiều đến, các môn đệ của Người xuống bờ
Biển Hồ, 17 và xuống thuyền đi về phía Ca-phác-na-um, bên kia Biển Hồ. Trời đã
tối (skotia) và Đức Giê-su chưa đến với các ông. 18 Biển động vì gió thổi
mạnh.” Các môn đệ vất vả chèo thuyền trong bóng đêm, trong khi biển động và gió
mạnh. Sự thiếu vắng Đức Giê-su và chi tiết biển động mạnh gợi đến sự khủng
hoảng của các môn đệ trong Tin Mừng Gio-an, đặc biệt ở cuối ch. 6 và ch. 14–16.
Thực vậy cuối ch.
6, các môn đệ đang ở trong tình trạng khủng hoảng nặng nề. Sau khi nghe diễn từ
về bánh sự sống (6,25-59), nhiều môn đệ nói rằng: “Lời này chướng tai quá! Ai
có thể nghe nổi?” (6,60). Hậu quả là có nhiều môn đệ bỏ đi không theo Đức
Giê-su nữa (6,66). Hơn thế, Đức Giê-su còn thông báo về Giu-đa, một môn đệ
trong Nhóm Mười Hai, là người sẽ nộp Thầy 6,70: “Chẳng phải chính Thầy đã chọn
anh em là Nhóm Mười Hai sao? Thế
mà một người trong anh em là quỷ.” Người thuật chuyện giải thích cho độc giả
biết ở 6,71: “Người [Đức Giê-su] nói về Giu-đa, con ông Si-môn Ít-ca-ri-ốt; vì
ông ấy sẽ nộp Người, một người trong Nhóm Mười Hai.” Khủng hoảng của các môn đệ
đã tỏ lộ trong tương phản: Si-môn Phê-rô, đại diện Nhóm Mười Hai tuyên xưng
niềm tin vào Đức Giê-su: “68 Thưa Thầy, chúng con sẽ bỏ đi với ai? Thầy có
những lời đem lại sự sống đời đời. 69 Phần chúng con, chúng con đã tin và đã
nhận biết rằng: Chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (6,68-69). Niềm tin
này tương phản mạnh mẽ với nhân vật Giu-đa, một môn đệ trong Nhóm Mười Hai, là
quỷ và là người sẽ nộp Đức Giê-su (6,70-71).
Trình thuật các
môn đệ chèo thuyền trên Biển Hồ trong đêm tối trong khi gió thổi mạnh
(6,16-18), gợi đến khủng hoảng của các môn đệ trong ch. 14–16, các ông đang lo
âu, xao xuyến và sợ hãi trước sự ra đi của Đức Giê-su. Ch. 14 mở đầu bằng lời
động viên của Đức Giê-su. Người nói với các môn đệ ở 14,1: “Lòng anh em đừng
xao xuyến, hãy tin vào Thiên Chúa và hãy tin vào Thầy.” Gần cuối ch. 14, Đức
Giê-su lại nói với họ: “Lòng anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (14,27b). Cuối
ch. 16, Đức Giê-su báo trước các môn đệ sẽ bị phân tán: “Này đến giờ – và
đã đến rồi – anh em sẽ bị phân tán mỗi người về nhà mình và bỏ lại Thầy một
mình. Nhưng Thầy không ở một mình vì Cha ở với
Thầy” (16,32).
Khủng hoảng của
các môn đệ trong đoạn văn 6,16-18 cũng gợi đến hoàn cảnh của cộng đoàn Gio-an
vào cuối thế kỷ I. Cộng đoàn đang gặp thử thách vì bị bách hại mà dường như Đức
Giê-su vắng mặt và bỏ rơi cộng đoàn. Nhưng sự thật không như thế, vì Đức
Giê-su đã nói với các môn đệ: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi, Thầy đến với anh
em” (14,18). Cũng vậy, ở 6,16-18, Đức Giê-su không bỏ rơi các môn đệ: “Các ông
thấy Đức Giê-su đi trên Biển Hồ và đang tới gần thuyền” (6,19b).
Ở 8,12, Đức Giê-su
đồng hóa mình với ánh sáng và giải thoát những ai “theo” Người khỏi “bóng tối”.
Cặp từ “ánh sáng - bóng tối” ở 8,12 có nghĩa thần học. Đức Giê-su nói với những
người Pha-ri-sêu: “Chính Tôi là ánh sáng của thế gian. Người theo Tôi, chắc
chắn sẽ không bước đi trong bóng tối, nhưng sẽ có ánh sáng của sự sống” (8,12).
Câu này đã phần nào tóm kết sứ vụ của Đức Giê-su trong Tin Mừng Gio-an. Người
đến trong thế gian để giải thoát con người khỏi phải bước đi trong bóng tối.
Đề tài “ánh sáng”
và “bóng tối” ở 12,35, dựa trên nghĩa đen để diễn tả nghĩa biểu tượng và thần
học. Thực vậy, Đức Giê-su nói với đám đông: “Còn một ít thời gian nữa, ánh sáng
ở giữa các người. Hãy bước đi khi các người còn có ánh sáng, để bóng tối không
bắt chợt các người. Ai đi trong bóng tối thì không biết mình đi đâu” (12,35).
Bao lâu Đức Giê-su chưa bước vào cuộc Thương Khó thì bấy lâu vẫn còn ánh sáng.
Nhưng chỉ còn một ít thời gian nữa thôi, vì sứ vụ công khai của Đức Giê-su đã
đến hồi kết thúc, đêm tối sự chết đang đến gần. Ai bước đi không có ánh sáng,
nghĩa là bước đi không có Đức Giê-su, không tin vào Người thì người ấy không
biết mình đi đâu (12,35c), cuộc đời người ấy ở trong bóng tối của sự chết. Tóm
lại, từ “bóng tối” (skotia) trong Tin Mừng Gio-an, khi thì minh nhiên, khi thì
mặc nhiên, gợi đến nghĩa biểu tượng.
3. “Skotia” và “skotos” (bóng tối)
Bên cạnh 8 lần
danh từ “skotia” trong Tin Mừng Gio-an, danh từ Hy Lạp “skotos”, chỉ xuất hiện
1 lần ở 3,19 để nói về “yêu mến bóng tối”. Câu hỏi đặt ra là sắc thái
nghĩa giữa “skotia” và “skotos” có khác nhau hay không vì cả hai từ này đều có
nghĩa là “bóng tối”? Có thể hiểu sự khác nhau giữa “skotia” và “skotos” trong
Tin Mừng Gio-an như sau:
(1) “Skotia” là
bóng tối mà người ta không muốn rơi vào đó. Danh từ “skotia” xuất hiện ở 8,12;
12,35; 12,46 trong những kiểu nói: “Không bước đi trong bóng tối” (8,12;
12,35); “không ở lại trong bóng tối” (12,46) Đức Giê-su đến để đưa
con người ra khỏi bóng tối này. Người mời gọi mọi người “theo” Người để
“có ánh sáng của sự sống” (8,12).
(2) Ngược lại,
danh từ “skotos” (bóng tối) xuất hiện ở 3,19 có sắc thái nghĩa khác. Đó là bóng
tối mà người ta yêu mến, nghĩa là người ta muốn ở lại trong đó. Đức Giê-su
tuyên bố ở 3,19-20: “19 Đây là án xử: Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta
đã yêu mến bóng tối (skotos) hơn ánh sáng, vì các việc của họ thì xấu xa. 20 Vì
mọi kẻ làm sự dữ thì ghét ánh sáng và không đến với ánh
sáng để các việc của họ khỏi bị chê trách.” Vấn đề ở đây là “yêu mến bóng tối
hơn ánh sáng” (3,19b). Trong đoạn văn 3,19-20 có hai cặp từ tương phản: “yêu –
ghét” và “ánh sáng – bóng tối”, các cặp từ tương phản này kết nối với nhau
thành các cụm từ “yêu mến bóng tối” (3,19) và “ghét ánh sáng” (3,20). Những ý
tưởng trong đoạn văn 3,19-20 nhắm đến những người, không những từ chối tin vào
Đức Giê-su mà còn tìm cách để giết Người. Họ không những không muốn thoát ra
khỏi “bóng tối” mà còn “yêu mến bóng tối”. Họ không chỉ “không đến với ánh
sáng” mà còn “ghét ánh sáng” (3,20), ghét Đức Giê-su, ghét Chúa Cha và ghét các
môn đệ của Người (15,18-25).
Như thế, “skotos”
(bóng tối) mà người ta yêu mến có ý nghĩa xa hơn: “Skotos” ám chỉ thế lực đen
tối làm tha hóa con người và làm cho con người trở thành nô lệ cho thế lực đen
tối. Tin Mừng thứ tư dùng nhiều từ khác nhau để gọi thế lực này: quỷ (6,70;
8,44; 13,2), Xa-tan (13,27), thủ lãnh thế gian này (12,31; 14,30; 16,11), Ác
thần (17,15). Trong viễn cảnh trên, “yêu mến bóng tối (skotos)” là cách thức từ
chối tin vào Đức Giê-su ở cấp độ cao nhất và dẫn đến “tự kết án mình
(auto-jugement de condamnation)”. Đức Giê-su tuyên bố ở 3,18: “Ai tin vào Người
[Con Một Thiên Chúa] thì không bị lên án; nhưng kẻ không
tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào
danh Con Một Thiên Chúa.” Thứ “tình yêu bóng tối” này (3,19) báo trước những
xung đột và tranh luận giữa Đức Giê-su và những kẻ chống đối. Họ là những người
đã bảo vệ quan điểm của mình bằng mọi cách, kể cả tìm cách giết Đức Giê-su.
Điều đó cho thấy họ “yêu mến bóng tối”, “thuộc về bóng tối” nghĩa là “thuộc về
quỷ” (8,44). Theo Tin Mừng Gio-an, lựa chọn “yêu mến bóng tối” hàm ẩn sự thù
ghét và bách hại sẽ được triển khai trong nội dung sách Tin Mừng.
III.
Kết luận
Tác giả Tin Mừng
thứ tư thường diễn tả thần học bằng những cặp từ đối lập. Những phân tích trên
cho thấy, cặp từ “ánh sáng – bóng tối” đã trình bày nhiều đề tài thần học quan
trọng. Có thể nói, toàn bộ Tin Mừng Gio-an mô tả một vụ kiện lớn, gọi là “vụ kiện
trong Tin Mừng Gio-an” (le procès johannique). Đó là vụ kiện giữa “ánh sáng” và
“bóng tối”, giữa “những người yêu mến ánh sáng” và “những người ghét ánh sáng”,
giữa “đến với” hay “không đến với” ánh sáng, giữa “tin” hay “không tin” vào ánh
sáng, nghĩa là “tin” hay “không tin” vào Đức Giê-su.
Sự đồng hóa minh nhiên giữa “Đức Giê-su và “ánh sáng” giúp độc giả hiểu các kiểu nói
đặc trưng của Tin Mừng Gio-an. Ở 12,36, Đức Giê-su nói với đám đông: “Khi các người có ánh sáng, hãy tin vào ánh sáng, để trở nên con
cái ánh sáng.” Trong câu này “có ánh sáng” là có Đức Giê-su hiện diện với mình,
“tin vào ánh sáng” là tin vào Đức Giê-su và “trở thành con cái ánh sáng” là trở
thành môn đệ của Người (12,36). Trong nhiều trường hợp, nghĩa đen của cặp từ “ánh sáng” và “bóng tối” dẫn
đến nghĩa biểu tượng và nghĩa thần học. Điều bản văn nhắm tới là trình bày
mặc khải về căn tính của Đức Giê-su và sứ vụ của Người, sứ vụ ban tặng “ánh
sáng của sự sống” cho con người.
Tương phản “ánh
sáng – bóng tối” xuất hiện ngay trong lời tựa Tin Mừng (1,5) và đề tài này chỉ
có trong phần Sách Các dấu lạ (Ga 1–12). Trong 12 chương này, không kể lời tựa,
đối lập “ánh sáng – bóng tối” xuất hiện ở đầu (3,19), ở giữa (8,12) và ở cuối (12,35; 12,46). Như thế, “ánh sáng” và “bóng
tối” là một trong những đề tài quan trọng của thần học Tin Mừng Gio-an, đề tài
này xuyên suốt sứ vụ công khai của Đức Giê-su, định nghĩa sứ vụ của Người và
cho biết con người cần làm gì để “có ánh sáng” và “không bước đi trong bóng
tối”. Bài viết này có nhiều điểm cập nhật và triển khai quan trọng so với phân
tích về “ánh sáng – bóng tối” trong tập sách YÊU và GHÉT trong Tin Mừng
Gio-an, phần II, tr.
48-56./.
Nguồn: http://leminhthongtinmunggioan.blogspot.com/2012/04/anh-sang-va-bong-toi-trong-tin-mung-gio.html
Các
mục từ liên quan:
ÁNH SÁNG, dt., phôs, trong Gio-an
CHIẾU SOI, đt.,
phainô, trong Gio-an, x. TOẢ SÁNG
CHIẾU SOI, đt., phôtizô, trong Gio-an
TOẢ SÁNG, đt., phainô, trong Gio-an
BÓNG TỐI, dt. skotia, trong
Gio-an
BÓNG TỐI, dt., skotos, trong
Gio-an
TỐI TĂM, trong Gio-an,
x. BÓNG TỐI